Trang chủ > Lớp Giáo lý

Ni sư Phụng Liên chia sẻ trực tuyến đề tài Hình ảnh Người Phật tử

Tác giả: Ban Truyền thông NGKS.  
Xem: 8574 . Đăng: 09/09/2021In ấn

 

Ni sư Phụng Liên chia sẻ trực tuyến đề tài Hình ảnh Người Phật tử

 

Sáng ngày 01/9/2021 (nhằm ngày 25/7/ Tân Sửu), sau buổi Lễ Trực tuyến Đại tường Ni trưởng Ngoạt Liên – Nguyên Ủy viên Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Chứng minh Phân ban Ni giới Trung ương GHPGVN; Nguyên Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Trưởng Ban thường trực Hội đồng Giáo phẩm Ni giới Hệ phái Khất sĩ, Trụ trì Tổ đình Tịnh xá Ngọc Phương (498/1/ Lê Quang Định, P1, Gò Vấp, TP.HCM), Ni sư Phụng Liên đã có bài pháp chia sẻ với Phật tử chủ đề "Hình ảnh người Phật tử".

 

 

Hình ảnh của Đức Phật khi xuất hiện ở đời là:

     - Chỉ làm đẹp cho đời

     - Chỉ làm lợi ích cho người

    - Chỉ đem sự an vui, hạnh phúc và không sợ hãi cho mọi loài chúng sanh.

Đệ tử Đức Thế Tôn cũng vậy, họ là những đệ tử Phật tử, bao gồm những người xuất gia và tại gia. Những người nầy là một trong 4 cột trụ của hàng Tăng Bảo, họ được xem là đệ tử Phật tử xuất sắc của Đạo Phật về lối sống, về phong cách và về tư tưởng tức cách nhìn cuộc đời, suy tư về thế giới và về con người trong thế giới đó.

Bên cạnh đệ tử Phật tử thuộc hàng Tăng Bảo đó, ta cũng thấy có những đệ tử Phật tử tuy đã có quy y Tam bảo nhưng bản thân còn những ràng buộc ở thế gian và gia đình, chưa thể một đời nầy hoàn tất hết vai trò của người đệ tử Phật tử xuất sắc của Thế Tôn, nhưng họ có những nỗ lực tự thân, luôn vươn lên, hướng tâm đến sống một đời sống thiện lương cho họ và cho gia đình. Những vị nầy được gọi là hàng đệ tử Phật tử quý hiếm của Đạo Phật vì giữa những phong ba bão táp, giữa những cám dỗ của cuộc sống cơm áo gạo tiền mà họ vẫn giữ được một đời sống thiện lương cho họ và gia đình.

Ngoài 2 hạng Phật tử xuất sắc và quý hiếm trên, không thiếu những người tuy không theo Đạo Phật, không có quy y Tam bảo nhưng lại có nhiều thiện cảm với Đạo Phật, tin vào những lời dạy của Đức Thế Tôn, ta gọi những vị nầy là tín đồ, tức người có lòng tin trong sạch vào Đạo Phật.

Dù là đệ tử hay không phải đệ tử, chỉ là tín đồ, nhưng các vị nầy đều là đại diện những hành ảnh vô cùng cao quý về khát vọng mong muốn có một đời sống vui yên, hòa hợp, hạnh phúc, tự do, v.v… mà chỉ có ở giáo lý Đạo Phật mới có thể đem lại cho họ mong ước nầy.

Khát vọng được sống và sống hạnh phúc là quyền của con người. Nhưng từ những khác biệt về lối sống, phong cách và tư duy, khiến cho có người đạt ý nguyện nhưng cũng có người đời sống không được như ý nguyện. Để có được những điều nầy, Đạo Phật dạy mỗi người chúng ta hãy xây dựng cho mình những yếu tố sau đây:

1). Về lối sống tức nói về đạo đức và nhân phẩm của con người.

Đa phần chúng ta không biết chính do lối sống chạy theo những ham muốn như vật chất, tình ái, quyền lực…ta bất chấp về đạo đức và nhân cách con người. Vì vậy, ta mãi chịu trói buộc trong những tham vọng, dục vọng.

Người đệ tử Phật tử sẽ tự tạo cho mình các chuẩn mực đạo đức cơ bản để tuy sống giữa những thăng trầm nhưng tâm không bị lôi kéo, làm mất lương tâm, phẩm chất của người Phật tử hướng thiện.

1. Khiêm tốn tức không kiêu căng, phách lối. Ngược lại với người khiêm tốn là người kiêu mạn. Kiêu mạn là một trong những tập khí sâu dầy của chúng sanh.

2. Biết xấu hổ và sợ hãi vì những điều bất thiện mình làm. Cũng có thể không ai thấy điều xấu ác mình làm, nhưng lương tâm mình biết, chư Thiên biết, Nghiệp của mình biết và Đức Phật biết. Người không biết xấu hổ và sợ hãi những lỗi lầm mình đã làm sẽ khó tiến tu thiện pháp .

3. Thành thật với chính mình và với mọi người xung quanh.

4. Sống kiên định tức có ý chí lập trường vững vàng trong những quyết định, trong đời sống, trong các mối liên hệ và trong pháp tu.

5. Không buông lung, phóng dật chạy theo các dục lạc thế gian. Siêng năng tu tập các thiện pháp bằng cách gìn giữ 6 căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý không chạy theo sắc tướng, âm thanh, mùi hương, vị hấp dẫn, xúc chạm và ý buông thả theo pháp trần.

6. Nhẫn với thời tiết, cuộc sống và tâm người. Ta chấp nhận những khổ đau do những điều kiện thay đổi bên ngoài đưa đến nhưng tâm tư vẫn an tịnh.

7. Biết ơn

8. Tập buông xuống những gì không thuộc về mình: Thế giới, gia đình và thân tâm nầy, chúng không thuộc về mình.

9. Dấn thân làm các việc thiện lành theo tuổi tác, thời gian và năng lực.

10. Có niềm tin vững chắc vào các pháp thiện lành, vào Tam bảo và vào con đường tu tập được Đức Thế Tôn giảng dạy.

2). Về phong cách sống tức hành vi, cách ứng xử.

Người đệ tử Phật tử xứng đáng đại diện cho hàng Tăng Bảo đem những cái đẹp nhất của Đạo Phật vào đời để làm tốt đời đẹp Đạo, ngang qua:

1. Tác phong tức các oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi hay ăn uống… đều có chánh niệm tức biết rõ mình đang làm gì và cử chỉ có điềm đạm, nhẹ nhàng không?

2. Giao tiếp có khiêm hạ, nhu hòa, thành thật không? Có ham nói, giành nói, nói những lời không cần thiết, không chân chánh không?

3. Ăn mặc giản dị, kín đáo thể hiện sự tôn trọng mọi người xung quanh.

3). Cuối cùng khi nói về tư duy tức cách nhìn, suy nghĩ của chúng ta về thế giới về cuộc đời và về con người, thì chắc chắn người Phật tử sẽ là người có chánh kiến và chánh tư duy.

-. Chánh kiến giúp hiểu đúng về đời sống và con người chúng ta.

Chánh nghĩa là chơn chánh, không sai. Kiến nghĩa là thấy, hiểu.

Chánh kiến nghĩa là sự hiểu biết trực tiếp đạt được qua sự thực hành về:

     i.Tứ Diệu Đế: Hiểu thân ngũ uẩn, nguyên nhân do đâu có thân ngũ uẩn và toàn bộ khổ não, hiểu trạng thái chấp dứt, làm cho mất đi nguyên nhân tạo nên khổ não và con đường thực hành đưa đến sự chấm dứt nguyên nhân khổ.

ii. Hiểu biết về chúng sanh có nghiệp và quả của nghiệp.

iii. Hiểu biết tính chất của các pháp đang có mặt trên cuộc đời nầy và cả thân tâm nầy là vô thường, là khổ và là vô ngã.

-. Chánh tư duy hay còn gọi là Chánh Hướng Tâm đến đối tượng.

Chánh tư duy sẽ giúp ta suy nghĩ đúng về nguyên nhân chúng ta khổ và phương pháp giảm bớt đến chấm dứt nguyên nhân tạo khổ. Tức thấy mọi hành sử nói năng, suy nghĩ đều làm theo sự sai khiến chỉ bảo của tham, sân và si.

Chánh tư duy đến từ sự:

i. Do suy tư, muốn từ bỏ các ham muốn về thế giới, cuộc đời và con người, gọi ly dục tưởng, ly sân tưởng và ly hại tưởng.

ii. Do suy tư, muốn từ bỏ các loại dục, vị nầy sẽ an trú và thực hành thiền định để chế ngự các loạn tâm, sẽ lần lượt chứng đắc các trạng thái thiền (Jhāna), tiếp theo là chứng đắc Đạo và Quả giải thoát.

Do suy tư muốn hướng đến từ bỏ sân hận, vị nầy thực hành thiền niệm tâm từ, có tư tưởng thương yêu, từ ái nổi bậc trong tâm.

Do suy tư hướng đến cầu mong cho tất cả chúng sanh thoát khỏi phiền muộn, là có tâm bi mẫn, sẽ từ bỏ được hại tưởng (=ly hại tưởng), tâm bi mẫn của vị nầy sẽ tràn ngập trong tâm.

Một khi vị nầy có sự giảm bớt hoặc chấm dứt các ham muốn, hận thù hoặc mê lầm, sẽ không còn tạo nghiệp bất thiện. Tâm vị nầy không còn dao động bởi vui, buồn, mừng, giận, thương, ghét hay ham muốn. Vị nầy sẽ sống vô tranh giữa những người thích đấu tranh; sống vô phiền giữa những người phiền não; và sống vô hại giữa những người mưu sâu kế độc.

Thưa quý Phật tử,

Chắc chắn trong cuộc đời chúng ta, ít hay nhiều chúng ta có rơi nước mắt, dù là khóc ra tiếng, khóc thầm hay chết lặng không thể khóc được. Ta khóc cho:

- Sự chia lìa ta với những người thân yêu nhất trong đời của chúng ta.

- Ta khóc cho số phận đầy bất hạnh với những lúc thăng rồi trầm, lúc vinh rồi nhục, lúc vui rồi buồn, lúc được rồi liền mất.

- Hay ta khóc cho những xúc cảm bị thiêu đốt bởi tham luyến, uất ức, hận thù, dối gian, thay đổi…

Những loại nước mắt nầy chẳng khác gì những độc dược, càng khóc chúng càng làm tổn hại đến thân thể và tâm hồn chúng ta. Chúng chỉ làm tăng thêm sự đau khổ, hận thù, bất mãn trong lòng ta mà thôi. Nguyên nhân có những giọt nước mắt nầy chảy mãi không dừng,vì:

-.Ta cứ chạy theo nắm giữ chặt, không muốn rời xa những thứ mà ta cứ ngỡ rằng ‘đáng lý ra chúng phải thuộc về mình’, nhưng một điều chắc chắn rằng chúng hoàn toàn ‘không thuộc về ta.’ Từ thế giới đến tài sản, nhà cửa, công danh sự nghiệp, cho đến những thành viên trong gia đình là những người ta yêu quý nhất và ngay cả mạng sống nầy cũng hoàn toàn không thuộc về ta.

Do vậy, sự chấp nhận từ bỏ những thứ không thuộc về ta sẽ khiến tâm ta nhẹ nhàng, đôi khi ta lại rơi nước mắt, nhưng đây là nước mắt của hạnh phúc và được ‘từ bỏ.’ Hãy tìm một bãi cát và viết lên đó những phiền não của mình, nhờ gió và thời gian xóa đi tất cả những gì ta viết trên đó, và từ đây ta sẽ sống an vui, hạnh phúc.

-.Nguyên nhân thứ 2 ta khóc vì từ trước đến nay ta cứ yêu cầu người khác đáp ứng lại cho ta những điều mà ta đã làm cho họ. Thí dụ cha mẹ nuôi con muốn con phải học, phải làm theo ý cha mẹ, nhưng đứa con muốn được tự do trong cuộc sống trong lựa chọn… thì cha mẹ buồn khổ. Khi những điều ta đặt ra cho người nầy người kia không được đáp ứng, ta sẽ vô cùng đau khổ. Điều nầy muốn nói rằng thật ra ta chỉ sống cho những cảm xúc của ta mà thôi (đồng nghĩa với tánh ích kỷ).

Nay ta ‘sẵn sàng để được yêu cầu làm nhưng không đòi đáp lại,’ tức luôn đáp ứng những yêu cầu của người xung quanh theo khả năng, thời gian và hoàn cảnh của ta. Nếu ta không thể đáp ứng được hết những yêu cầu hay chỉ đáp ứng một phần nào, ta cũng luôn thầm cảm ơn những người đó đã tạo điều kiện cho ta biết thế nào là ‘sống cho đi,’ ‘sống 1 đời sống có ý nghĩa’ hay ‘sống biết nhẫn nhịn và tha thứ.’

Đạo Phật thường khuyến khích ta tập nói pháp. Không phải vì muốn tâng bốc ta lên, cũng không phải vì thấy ta là nhân vật quan trọng hơn người khác, mà vì sự nói giáo lý thường xuyên sẽ giúp ta nhớ và thực hành giáo pháp , để từ đó dần dần ta tự cải tiến bản thân và nội tâm mình, đưa tâm thoát ra những bế tắc đau khổ mà trước đây ta tự cột vào. Người thường xuyên nói pháp, suy tư về pháp và thực hành giáo pháp đã được giảng dạy đã được nghe, không lâu vị ấy sẽ thể nhập pháp. Người sống và thể nhập pháp, Đức Thế Tôn gọi là thấy pháp và người thấy pháp là người thấy Như Lai.

Ai thấy pháp, người ấy thấy Như Lai

Ai thấy Như Lai, người ấy thấy pháp .”[1]

 

 

[1] ĐTKVN, Tương Ưng Bộ Kinh, quyển Ba, Năm Mươi Kinh ở Giữa, phẩm Trưởng Lão, phần Vakkāli (VNC.2000), tr.216.

 






 

Ban Truyền thông NGHPKS

-----ooOoo-----

Ý KIẾN BẠN ĐỌC


NI TRƯỞNG HUỲNH LIÊN
  • Thích Nữ Huỳnh Liên
  • Thích Nữ Huỳnh Liên
  • Thích Nữ Huỳnh Liên

 

Nguyện xin hiến trọn đời mình

Cho nguồn Đạo pháp cho tình Quê hương

 

THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ
  • Thích Nữ Bạch Liên
  • Thích Nữ Thanh Liên
  • Thích Nữ Kim Liên
  • Thích Nữ Ngân Liên
  • Thích Nữ Chơn Liên
  • Thích Nữ Quảng Liên
  • Thích Nữ Quảng Liên
  • Thích Nữ Tạng Liên
  • Thích Nữ Trí Liên
  • Thích Nữ Đức Liên
  • Thích Nữ Thiện Liên
THÔNG BÁO

Thông báo Khóa Bồi dưỡng đạo hạnh lần thứ 8 do Ni giới Hệ phái Khất sĩ tổ chức

Tiếp theo thời khóa tu học trong 3 tháng An cư là chương trình 10 ngày bồi dưỡng đạo hạnh lần thứ 8 cho chư Ni NGHPKS, bắt đầu từ chiều mùng 1 tháng 7 đến ngày 11 tháng 7 năm Giáp Thìn (nhằm ngày 4/8/2024 – 14/8/2024) tại Tổ đình Tịnh xá Ngọc Phương (Số 498/1 đường Lê Quang Định, Phường 1, quận Gò Vấp, Tp. HCM)

Thông báo khóa Bồi dưỡng đạo hạnh lần 9 do Hệ phái Khất sĩ tổ chức

Nhằm nâng cao đời sống Phạm hạnh và thắp sáng lý tưởng giải thoát, giác ngộ và phụng sự Đạo pháp cho các Tăng Ni trẻ vừa bước chân vào đạo, Hệ phái Khất sĩ mỗi năm tổ chức một khóa BỒI DƯỠNG ĐẠO HẠNH tại Pháp viện Minh Đăng Quang (505 Võ Nguyên Giáp, phường An Phú, TP. Thủ Đức, TP. HCM) dành cho các Sa-di, Sa-di-ni và Tập sự.

Thư mời viết bài Tập san Đuốc Sen - số 35 chủ đề Lễ tự tứ Tăng và Vu lan Báo hiếu

Thư mời viết bài Tập san Đuốc Sen - số 35 chủ đề Lễ tự tứ Tăng và Vu lan Báo hiếu

Thông báo Lớp Giáo lý trực tuyến

Thời gian tụng kinh, thuyết giảng trực tuyến như sau: Tụng kinh: Hàng ngày từ 6g30 – 7g15 tối là thời khóa tụng kinh Dược Sư, các ngày sám hối trì tụng Hồng Danh Bửu Sám Thuyết giảng: 7g30 – 8g30 tối hàng ngày

VIDEO HÔM NAY

Trực tiếp: Phiên Bế mạc Hội thảo Khoa học Ni trưởng Huỳnh Liên tại Pháp viện Minh Đăng Quang - Ban Truyền hình Trực tuyến PSO

Pháp âm MP3

  • 0 - Lời Mở Đầu
  • 01 - Võ Trụ Quan
  • 02 - Ngũ Uẩn
  • 03 - Lục Căn
  • 04 - Thập Nhị Nhơn Duyên

LỊCH VIỆT NAM

THỐNG KÊ