Trang chủ > Đức Tổ Sư > Bài Viết

Lục Căn (Chơn lý số 3)

Tác giả: NT. Minh Liên.  
Xem: 5246 . Đăng: 12/11/2021In ấn

 

Lục Căn (Chơn lý số 3)

 

Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang (Biên soạn)

NT. TN. Minh Liên – Tịnh xá Ngọc Phương (Phổ thơ)

Tháng 10 - 2021 (Tân Sửu)

   

I

NGUYÊN NHƠN SANH KHỞI LỤC CĂN:

LỤC CĂN sáu phần của con NGƯỜI,

Là: MẮT – TAI – MŨI – LƯỠI – THÂN – Ý.

QUẢ ĐỊA CẦU từ buổi đầu,

Nó là một làn hơi đặc nỗi tròn.

Nó hết nỗi, rồi lần đến xẹp,

QUẢ ĐỊA CẦU: ĐẤT – NƯỚC – LỬA – GIÓ.

Lúc khi mới nỗi không không,

Rồi lần CỎ - CÂY –THÚ – NGƯỜI – TRỜI – PHẬT.

ẤM chính là của sự dung hòa,

Giữa cái nóng và sự lạnh lùng.

Đất ấm sanh ra nhựa chỉ,

Lần lần biến thành rể cây cỏ thú.

Nước ấm sanh bèo rong đặc lềnh,

Lâu cũng biến thành thú cỏ cây.

Đó là TRẦN sanh CĂN vậy,

Có CĂN rồi, CĂN nó sẽ sanh THÂN.

Thân sanh QUẢ, QUẢ sẽ sanh NHƠN,

NHƠN trong trần sanh thân QUẢ khác.

CĂN là rể, TRẦN là bụi,

QUẢ chính là trái, NHƠN là hột giống.

TRẦN là chất sống của cải,

CĂN là hình thể của sự sống vậy.

 

Cái sống, cái biết kêu là THỨC,

THỨC ở giữa nơi TRẦN và CĂN.

TRẦN sanh THỨC, THỨC sanh CĂN,

TRẦN là TỨ ĐẠI kêu là VÔ MINH.

VÔ MINH nó sẽ sanh ra HÀNH,

HÀNH nó sẽ sanh ra THỨC vậy.

HÀNH là cái ấm TỨ ĐẠI,

Tức là có sự lăn xoay dời đổi.

Nó rung động, nóng lạnh, sáng tối,

Tương đối, lâu ngày sanh ra THỨC.

Tức là biết sự sống lần.

 

Cái THỨC biết, sống của cây cỏ,

Chúng ta kêu, gọi là THỌ CẢM.

Cái THỨC biết của loài thú,

Chúng ta kêu, gọi nó là TƯ TƯỞNG.

Cũng như một đứa trẻ mới sanh,

Do hột giống, có người mới tạo.

Bỏ vào một chổ kín đáo,

Rồi thì cái THỨC BIẾT không nảy nở.

Và sẽ lần hồi CHẾT mất luôn,

Hay có một người thường ngủ mê.

Nếu không có sự cử động,

Bên ngoài không có cái THỨC biết sống.

Cái THỨC biết SỐNG của con người,

Là do nơi sự động mà có.

Thay đổi VÔ THƯỜNG là HÀNH,

Thường hay gọi là ẤM của TRẦN vậy.

Có THỨC rồi, THỨC mới sanh CĂN,

CĂN chính là hình thể tưởng tượng.

Món đồ sanh ra bởi THỨC,

Cho nên con người gọi THỨC là chủ.

CĂN nó là đồ vật của chủ,

Chổ ở, ăn… nuôi CĂN là TRẦN.

CĂN sanh ra nơi từ TRẦN.

Trở lại NÓ ăn uống nơi từ TRẦN.

Con sống từ nơi THÂN của MẸ,

Còn cái THỨC hột giống ông CHA.

Ta tự hỏi: MẮT – TAI – MŨI – LƯỠI…

Của con người gọi là CĂN RỂ.

Giống như RỂ nó sanh CÂY,

Bởi TRẦN là của cải chất nuôi sống.

Cây CĂN RỂ thâu rút ăn TRẦN,

Để nuôi cây tượng TRÁI sanh HỘT.

Cũng như y con người ta,

Mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu cửa.

Thâu vạn vật, nuôi TÂM sanh TRÍ,

Nó tạo thành TÁNH của con người.

Sáu cửa ví như rể cây,

TÂM như mình cây, TRÍ như bông cây.

TÁNH của nó như trái cây vậy,

TỨ ĐẠI là: ĐẤT – NƯỚC – LỬA – GIÓ.

Chính là chất sống tạo ra,

THỨC CĂN nó liền trở lần quay lại.

Nó ăn chất sống của TỨ ĐẠI.

 

Trong VÕ TRỤ, không gian, thời gian,

Có BA PHÁP: là TRẦN – THỨC – CĂN,

TRẦN là tứ đại của cải,

THỨC là sự sống, biết của chúng sanh.

CĂN thể tướng, hình dáng chúng sanh,

Cho nên ta có thể nói rằng:

Trong VÕ TRỤ của vạn vật,

Một cây TRẦN vật chất là tứ đại.

CĂN – RỂ ăn TRẦN để nuôi THỨC,

THỨC thân cây, TƯỞNG là nhánh cây.

PHÁP lá cây, TRÍ như hoa,

GIÁC như võ trái, TÁNH như là hột.

CHƠN LÝ rõ như là thịt cơm,

CÂY là ĐẠO của chúng sanh vậy.

ĐẠO từ nơi TRẦN mà ra,

QUẢ ấy là QUẢ GIÁC là ĐỨC PHẬT.

II

GIỚI HẠN CỦA TRẦN – THỨC – CĂN:

Các CĂN của cỏ, cây, thú, người,

Không giống nhau là bởi THỨC XÚC.

Nhơn duyên hoàn cảnh của TRẦN,

Theo duyên huyễn ngã tưởng rằng sắc thân.

Sự tưởng tượng ấy là tư tưởng,

TƯ TƯỞNG là THỨC của THỌ CẢM.

THỨC là non nớt của TRẦN,

TƯ TƯỞNG là THỨC mạnh mẽ của TRẦN.

Có TƯ TƯỞNG, mới có hành vi,

HÀNH VI THỨC, cử động của TRẦN.

CÂY thì nó có THỌ CẢM,

THÚ có TƯ TƯỞNG, NGƯỜI có HÀNH VI.

 

Sự tiến hóa của chúng sanh là:

NGƯỜI GIÀ biết nhiều hơn TRẺ NHỎ.

Ngày mai là hơn ngày nay,

Sáng hay chiều nó luôn luôn tăng trưởng.

Chúng sanh từ trong TỐI ra SÁNG,

Từ điều ÁC tiến lần đến THIỆN.

Từ ĐỊA NGỤC đến THIÊN ĐƯỜNG,

Ấm từ nơi tứ đại sanh ra cỏ.

CỎ lâu ngày THỌ CẢM thành CÂY,

CÂY GIÀ có tư tưởng sanh THÚ.

THÚ lớn khôn sẽ thành NGƯỜI,

Người lần tiến hóa sẽ thành TRỜI.

TRỜI GIÀ có GIÁC CHƠN là PHẬT,

Kẻ tiến hóa, NGƯỜI kia bắt chước.

Người bị hiếp đáp vượt lên,

Trong cõi trần nơi TỨ ĐẠI này,

CỎ - CÂY – THÚ –NGƯỜI – TRỜI và PHẬT.

Là căn thân quả hột già,

TRỜI là đại nhơn, PHẬT là lão nhơn.

 

SỰ SỐNG CỦA TẤT CẢ KÊU LÀ THỨC

CÓ TÁM THỨC:

  1. NƯỚC có cái thức kêu là THẤY,
  2. ĐẤT có cái thức kêu là NGHE.
  3. CỎ có cái thức kêu là NGỬI,
  4. CÂY có cái thức kêu là NẾM.
  5. THÚ có cái thức kêu là RỜ,
  6. NGƯỜI có cái thức kêu là TƯỞNG.
  7. TRỜI có cái thức kêu là HIỂU,
  8. PHẬT có cái thức kêu là GIÁC NGỘ.

TỨ ĐẠI LÀ TRẦN

TẤT CẢ CÓ SÁU TRẦN:

  1. NƯỚC có sắc trần kêu là HÌNH DẠNG,
  2. ĐẤT có thinh trần kêu là TIẾNG TĂM.
  3. CỎ có hương trần là MÙI,
  4. CÂY có vị trần kêu là NGỌT – ĐẮNG.
  5. THÚ có xúc trần kêu là ĐỤNG CHẠM,
  6. NGƯỜI có pháp trần sự BIẾN TÁC.

Riêng TRỜI PHẬT không dùng trần TỨ ĐẠI.

  1. TRỜI có HUỆ trần, dứt bỏ PHIỀN NÃO,
  2. PHẬT có CHƠN trần, như như CHẲNG ĐỘNG.

TRẦN SANH THỨC – THỨC SANH CĂN.

TẤT CẢ CÓ TÁM CĂN

  1. NƯỚC có NHÃN CĂN là con mắt,
  2. ĐẤT có NHĨ căn là lổ tai.
  3. CỎ có TỶ căn lổ mũi,
  4. CÂY có THIỆT căn kêu là cái lưỡi.
  5. THÚ có THÂN căn kêu là mình,
  6. NGƯỜI có Ý căn kêu là muốn.
  7. TRỜI có TRÍ căn phân biệt,
  8. PHẬT có TÁNH căn kêu là tự nhiên.

Gồm tất cả tám TRẦN + THỨC + CĂN,

Cộng lại là hai mươi bốn giới.

Từ ĐỊA NGỤC đến NIẾT BÀN,

TRẦN nào cũng đều sanh ra THỨC nấy.

THỨC nào cũng sanh ra CĂN nấy.

CĂN nào cũng sanh ra TRẦN nấy.

CĂN ta ví như cái nhà, 

TRẦN ta ví như vật chất của cải.

THỨC nó chính là chủ nhân ông,

NGƯỜI thanh thì cảnh nó cũng thanh.

Người dơ trược cảnh cũng trược,

Đó là quy luật của vòng luân chuyển.

 

Từ thú xuống có CĂN – TRẦN – THỨC,

Thuộc về loại hữu vi hình thể.

Từ người sắp lên TRỜI – PHẬT,

Gồm có ba căn, ba trần, ba thức.

Thuộc về loại vô vi, không tướng,

Cho nên thú sắp xuống là ÁC.

Từ NGƯỜI sắp lên là THIỆN,

Người thì còn có thân hướng về THIỆN.

Nên có thể còn ÁC chút ít,

Chớ khi đã đến nơi TRỜI rồi.

Còn hình bóng mới trọn thiện,

Theo quy luật cuộc sống nó vậy.

 

Một căn ngầm chứa bảy căn khác,

Một trần ngầm chứa bảy trần khác.

Một thức ngầm chứa bảy thức khác,

Như tám nấc thang, tám khoảng đường.

Ai tự mình cũng đi tới lui được.

TRONG TÁM TRẦN CHIA RA LÀM BỐN LOẠI:

1. Nước đất một loại,

2. Cỏ cây một loại,

3. Thú người một loại,

4. Trời Phật một loại.

NƯỚC – ĐẤT – CỎ - CÂY – THÚ ác trần,

NGƯỜI – TRỜI và PHẬT có thiện trần.

Người sau khi chết trở lại,

Xác thân TỨ ĐẠI gọi có sáu trần.

TRỜI tái sanh nên gọi CHÚNG SANH,

PHẬT toàn giác nên gọi NIẾT BÀN.

 

NGƯỜI lòng nhơn không phải xác thân,

Xác thân TỨ ĐẠI giống thú vậy.

Cho nên CĂN – NGƯỜI – TRỜI – PHẬT,

Chính là Ý – TRÍ – TÁNH không hình dạng.

TRẦN của NGƯỜI – TRỜI – PHẬT chính là:

PHÁP HUỆ CHƠN không có hình dạng.

THỨC đây của NGƯỜI – TRỜI - PHẬT,

Là TƯỞNG – HIỂU – BIẾT cũng là không không.

 

TRONG TÁM CĂN CŨNG CHIA RA LÀM BỐN LOẠI:

  1. Một là NƯỚC và ĐẤT một loại,
  2. Hai là CỎ và CÂY một loại.
  3. Ba là THÚ và NGƯỜI loại.
  4. Bốn là TRỜI và PHẬT một loại.

NƯỚC –ĐẤT – CỎ - CÂY –THÚ ÁC CĂN,

NGƯỜI TRỜI và PHẬT có THIỆN CĂN.

 

Con NGƯỜI chúng ta sau khi CHẾT,

Còn trở lại xác thân TỨ ĐẠI.

Nên gọi TỨ ĐẠI sáu căn,

Như vậy là ở trong địa cầu nầy.

Kể từ NGƯỜI sắp xuống là có:

Sáu CĂN, sáu TRẦN, và sáu THỨC.

Cộng là mười tám giới chung,

Còn phần hai CĂN, hai TRẦN, hai THỨC.

Sáu giới riêng phía trên TRỜI – PHẬT,

Lúc còn mang xác thân TỨ ĐẠI.

Mà tâm THỨC – CĂN và TRẦN,

Không ô nhiễm, luôn an lạc thanh tịnh.

 

Vả lại BẬC NHƯ LAI mới có,

Cái ta ấy nó luôn chắc chắn.

Gồm cả hai mươi bốn giới,

NÓ thành ra cái CHƠN NHƯ tự nhiên.

Không hình tướng, không có tự cao,

Luôn ly xả, không trong trần cảnh.

Luôn đem lợi lạc quần sanh,

Chúng sanh mê lầm ngã mạn xưng ta.

Tự cho CĂN – TRẦN – THỨC là ta.

Hiểu lầm nó theo duyên cảnh,

Nếu ta xét kỷ những THỨC – CĂN – TRẦN.

Tất cả vốn như huyễn hư ảo,

Không có gì là ta, của ta.

Cũng như đất nước cỏ cây,

Rể thân, lá nhánh, hoa quả, trái cành.

Cái gì là ta, là của ta,

Tất cả đều là hư huyễn cả.

Cái nào rồi cũng hư hoại,

Trả về cho tứ đại hoàn tứ đại.

 

Sau rốt chỉ tồn tại là NGƯỜI,

Chính là trái hạt chín có hột.

Thì đó là cái ta vậy,

Thế thì đều gom về cái hột cả.

Như vậy chính là ĐỨC NHƯ LAI,

Mới thật sự là có cái ta.

Chúng sanh luôn luôn mê vọng,

Chỉ có cái ta giả dối, tội lỗi.

III

THUẬN THEO CĂN LÀ TIẾN HÓA.

Loài NGƯỜI một loại chung với THÚ,

Nhưng NGƯỜI thiện hai phần, ác một.

Còn THÚ ác đến hai phần,

Thiện còn chỉ có một phần mà thôi.

NGƯỜI nhơn đức, nhơn từ, nhơn ái,

NGƯỜI là đức từ ái làm đầu.

NHƠN cũng là không sát hại,

Luôn luôn biết thương yêu vạn loài.

Bởi loài THÚ thường giết hại nhau,

Nó luôn lấy sự sống làm đầu.

Gọi THÚ ác nhiều là vậy,

Rồi dần biến đổi theo luật tiến hóa.

 

NGƯỜI chỉ là tiếng nói, tên gọi,

CĂN của người do chính là Ý.

THỨC của người chính là TƯỞNG,

TRẦN của người là PHÁP, không hình thể.

Sống luôn lương thiện thanh cao,

Thảy không chấp tướng thể hình nào đây.

 

Nhơn người cũng nghĩa là hột giống,

Người tăng trưởng thiện căn ý thức.

Nhưng còn non nớt tham lam,

Còn nhiều dục vọng muốn ham cõi đời.

Được như TRỜI là BẬC ĐẠI NHƠN,

ĐỨC PHẬT chính là BẬC LÃO NHƠN.

NGƯỜI là tiểu nhơn trên THÚ,

Dưới nơi bậc TRỜI, NGƯỜI ở bậc giữa.

Người có lời nói như thịt cơm,

Việc làm người như vỏ của hột.

Ý tưởng người như ngòi mộng,

Người còn tham, sân, si chấp lầm tưởng.

Hằng lấy sự tưởng tượng làm mình,

Còn mến thích say sưa các pháp.

Chấp pháp hữu vi vật chất,

Việc làm lới nói chưa được ôn hòa.

Do bởi sự sanh sản tiến hóa,

Trong trần mới ra, biết trần thôi.

Kẻ này mới được tiến hóa,

Nên còn tánh THÚ rất là sâu nặng.

Loài người thì biết vượt hơn lên,

Biết học tập và biết làm ăn.

Cho sung sướng và dể dàng,

Loài NGƯỜI khôn khéo, bóc lột đủ điều.

Nhưng lại ưa lười biếng không làm,

Ham tìm sung sướng về thức ăn.

An nhàn sự mặc, chổ ở,

Chen đua trong trần được sống yên thân.

 

Loài NGƯỜI rất sợ những điều khổ,

Cho nên Ý CĂN rất mạnh mẽ.

Như con ngựa kia lôi kéo,

Cái THỨC đi nhập thai ở trong trần.

Để sanh CĂN trong trần ra nữa,

Để mong đặng hưởng được vị trần.

Mỗi lần sau khi chết đi,

CĂN củ hoại, tái sanh lần nữa.

 

Càng sợ khổ, lại càng tìm vui,

Trong trần càng sâu càng ngộp đắm.

Quá do tham lam mà khổ,

Tức giận hung ác mê muội tối tăm.

Còn xác thân trần, chỉ biết trần,

Loài người ít ai chịu học hỏi.

Ít tìm hiểu về CHƠN LÝ,

Tìm về lẻ thật nguyên nhơn của mình.

Cho nên vì vậy mà rất ác,

Giết NGƯỜI, giết THÚ chẳng thương xót.

Không còn bà con quyến thuộc,

Không thương nhớ công ơn của CHA MẸ.

 

Loài NGƯỜI trước kia ăn lá trái,

Bởi CỔ NHƠN nguồn gốc VƯỢN KHỈ.

Nhưng vì sự ham ăn ngon,

Thế nên tập quen ăn lần huyết nhục.

NGƯỜI ưa ham mê vui sống nhứt,

Ham vui sướng mà phải chết mau.

Lắm kẻ đến lúc già chết,

Khi bịnh sắp tắt hơi mới tỉnh ngộ.

Nhưng mọi việc đã trể lắm rồi,

Phần nhiều lớn già mới có TRÍ.

Biết lo sợ khổ chán trần,

Biết mình không thật có, đều vô thường.

Loại NGƯỜI bị chết ngộp, chìm trong nước,

THÂN CĂN như NHÀ, MẮT là CỬA.

Ý CĂN như là kho vựa,

Sáu trần tuông vào mãi là của cải.

TƯỞNG THỨC là CHỦ, cùng gia nhân,

Thấy nghe rờ ngửi, nếm xúc chạm.

Lắm khi TRẦN nhiều VÔ MINH,

Bị chôn lấp sâu, chết ngộp là khổ.

 

Loài THÚ khổ THÂN, NGƯỜI khổ Ý,

NGƯỜI sướng THÂN, Ý mệt nhọc hơn.

Loài NGƯỜI sống lâu hơn THÚ,

Bởi do có chút lòng nhơn với nhau.

NGƯỜI lấy Ý làm chủ nên bị:

MẮT – TAI – MŨI – LƯỠI – THÂN bao vây.

Sáu TRẦN nhận lấp chi phối,

THẤY – NGHE – HƯỞI – NẾM – RỜ -TƯỞNG hành phạt.

NGƯỜI như kẻ tội trong tù ngục,

Sáu CĂN nó sẽ sanh ra Ý.

Để rồi bị nhốt phạt hành hạ,

Dầu sao loài NGƯỜI cũng hơn THÚ.

Cỏ cây khổ chết là chịu,

Chớ không thể tìm phương nào trốn tránh.

NGƯỜI thoát khổ đến cõi TRỜI – PHẬT,

Chúng sanh từ trong khổ sanh ra.

Và đi đến cái tột vui,

Biết suy nghĩ tu tập vượt lên mãi.

Chúng sanh tiến lên theo trình độ,

Nương ý thức đi tới vươn lên.

Là vui theo điều xuôi thuận,

Nếu đi lui là khổ, là ngược nghịch.

 

Qua hai CĂN – TRẦN –THỨC là CỎ,

  Qua ba CĂN – TRẦN – THỨC là CÂY.

  Qua bốn CĂN – TRẦN –THỨC là THÚ,

                 Qua khỏi năm CĂN – TRẦN – THỨC là NGƯỜI.

    Qua sáu CĂN – TRẦN – THỨC là TRỜI,

    Qua bảy CĂN – TRẦN –THỨC là PHẬT.

            LOẠI               TRẦN             THỨC              CĂN

1

Nước

Sắc

Thấy

Nhãn

2

Đất

Thinh

Nghe

Nhĩ

3

Cỏ

Hương

Hưởi

Tỷ

4

Cây

Vị

Nếm

Thiệt

5

Thú

Xúc

Rờ

Thân

6

Người

Pháp

Tưởng

Ý

7

Trời

Huệ

Hiểu

Trí

8

Phật

Chơn

Biết

Tánh

 

NGƯỜI tiến đến cảnh giới TRỜI – PHẬT,

Là điều thuận tốt lành rất vui.

Bằng lui xuống THÚ – CỎ - CÂY,

Tức là khổ trật, không thể nào yên.

Trẻ nhỏ tập người già là thuận,

Người già trở lại nhỏ là ngược.

Biết mà sống đúng quy luật,

Là thiện là đi tới sống an vui.

Sự tiến hóa của chúng sanh là:

Mới bắt đầu cũng như người ngủ.

Hay như trẻ trong bào thai,

Luôn luôn tiến hóa đúng theo quy luật.

  1. NƯỚC – ĐẤT – CỎ - CÂY – THÚ – NGƯỜI – TRỜI – PHẬT,
  2. SẮC – THINH - HƯƠNG – VỊ -  XÚC – PHÁP – HUỆ - CHƠN.
  3. THẤY – NGHE – HƯỞI – NẾM – RỜ - TƯỞNG – HIỂU – BIẾT,
  4. MẮT – TAI – MŨI – LƯỞI – THÂN – Ý – TRÍ – TÁNH.

Ở cảnh giới nào cũng cóNHÀ ( CĂN )

Của cải nhiều vật chất kho báu ( TRẦN )

        Bà con quyến thuộc nương theo, ( THỨC )

    Loại nào cũng vậy: THỨC ví như ĐẦU.

        CĂN như MÌNH và TRẦN như CHÂN,

Gồm đủ ba phần gọi một thể.

Một thể hai mươi bốn giới,

Một giới nầy, hai mươi ba giới kia.

Những bậc thấp, có giới đã sanh,

Giới đang sanh và giới chưa sanh.

Những bậc trên, giới đã sanh,

Và có tất cả giới đang thọ sanh.

Cho nên gọi: PHẬT tức CHÚNG SANH,

CHÚNG SANH tức là ĐỨC PHẬT vậy.

Tất cả đồng là một thể,

Chỉ là khác nhau ở nơi trình độ.

Là đã già, hay chưa già thôi,

Sớm hoặc trể, tùy theo thời gian.

Nếu chúng sanh biết kính PHẬT,

Và luôn kính quý các bậc TIỀN BỐI.

Chúng sanh biết tiến hóa rất mau,

Mục đích thoát khổ được an vui.

Bằng không ưa, tức vô đạo,

Chúng sanh sẽ đi lui, bị khốn khổ.

IV

LỤC CĂN THANH TỊNH.

LỤC CĂN là sáu căn trong sạch,

Vì loài NGƯỜI có đủ sáu căn.

Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý,

THIỆN luôn là trắng, ÁC là luôn đen.

KHÔNG - KHÔNG thường gọi là trong sạch,

CÓ – CÓ thường gọi là dơ bẩn.

LỤC TRẦN nó là chất bụi,

Dính vào rồi khó rửa phủi cho ra.

Nếu đóng bụi dơ thì ngộp khổ,

NGƯỜI bị chết nhiễm vì vật chất.

CHẾT trong sự luôn ác hung,

LỤC TRẦN nấm MÃ, LỤC CĂN thây MA.

LỤC THỨC ví nó như dòi tửa,

LOÀI THÚ nó luôn luôn thấp hèn.

Nó cho loài NGƯỜI sung sướng,

Tiếng thanh, sắc tốt, mùi thơm, vị ngọt…

Trái lại loài NGƯỜI đã quá khổ,

Thấy TRẦN mới biết TRẦN bụi bặm.

Vì TRẦN mà khởi TAM ĐỘC,

Ở trong TRẦN con NGƯỜI – THÚ in nhau.

Ví như con NGƯỜI muốn lên cao,

TRỜI – PHẬT bởi đã có kinh nghiệm.

Tìm nơi để được học hỏi,

Phải thường nên xa lánh ở cõi người.

Phải quyết chí dứt bỏ LỤC CĂN,

Phải thường luôn quét sạch LỤC TRẦN.

Thường nên lánh xa LỤC THỨC,

Làm TRỜI – PHẬT  luôn nhẹ nhàng thanh thoát.

Lấy tinh thần làm sự nghiệp,

Lấy đạo lý làm nếp sống sạch trong.

 

Cũng như người học trò lên lớp,

Sự sống có mực thường bền dài.

Yên vui hơn cái tham lam,

Nếu mà thái quá, rồi sẽ bất cập.

Đã không rồi, mà còn khổ mãi,

Đã nói tiếng nói SÁT LỤC CĂN.

TRẢM LỤC TRẦN, DIỆT LỤC THỨC,

Nói là thế, không phải giết bỏ NÓ.

Bằng hiểu biết, tự chủ chính mình,

Biết rỏ lấy TRÍ TÁNH làm CĂN.

Phải lấy HUỆ CHƠN làm TRẦN,

Lấy TUỆ GIÁC của mình làm TRỜI – PHẬT.

Bỏ qua, quên mất, coi như không,

Không có tham vọng, đừng cố chấp.

Vòng quay xả bỏ nhẹ nhàng,

Thú người cây cỏ vô vàn huyễn hư.

Bị trói buộc, nhiều đời khổ lụy,

Nay giác ngộ, hết khổ yên vui.

Không tham tiếc và mê chấp,

Luôn thăng hoa, sống trong sạch vươn lên.

 

Nơi loài NGƯỜI có MƯỜI TÁM GIỚI,

Có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Sáu căn nầy thiếu xấu ÁC CĂN,

Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

Có nhiều rất tốt gọi là ÁC TRẦN.

Và thấy, nghe, ngữi, nếm, rờ, tưởng,

Có có đó chính là ÁC THỨC.

Tức là: MƯỜI TÁM CÕI ĐỊA NGỤC,

  1. Có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Luôn luôn lành tốt là THIỆN CĂN,

Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

Phát sanh ít xấu gọi là THIỆN TRẦN.

Và thấy, nghe, ngữi, nếm, rờ, tưởng,

Nếu là không không là THIỆN THỨC.

Tức là: MƯỜI TÁM CÕI THIÊN ĐƯỜNG.

Có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý,

Luôn tạo hành vi xấu MA CĂN.

Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp,

Mất bình tĩnh, cấu loạn là MA TRẦN.

Và thấy, nghe, ngữi, nếm, rờ, tưởng,

Luôn bị mê nhiễm là MA THỨC.

Tức là: MƯỜI TÁM CÕI MA,

Có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

An bình, chơn như là PHẬT CĂN.

Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp,

Sự yên lặng tịnh định là PHẬT TRẦN.

Và thấy, nghe, ngữi, nếm, rờ, tưởng,

Không bị mê nhiễm là PHẬT THỨC.

Tức là: MƯỜI TÁM CÕI PHẬT.

 

LOÀI NGƯỜI QUÊN BỔN CĂN.

Mỗi người TA có nên tự hỏi,

Quý trọng binh vực loài NGƯỜI chăng?

Không! Ta không nên bảo thủ,

Vì loài NGƯỜI từ loài THÚ tiến lên.

Mà lắm kẻ tàn ác hơn thú,

Thú nó có răng, nó có móng.

Một con chỉ giết một con,

Và không biết phá hoại loài vạn vật.

Thế nhưng, trái lại nơi loài NGƯỜI,

Cũng là vi trùng của thế giới.

Là dòi tửa của trái đất,

Con sâu của võ trụ quá ác gian.

Nó giỏi và hay hơn QUỶ MA,

Luôn luôn moi móc và xô đẩy.

Làm cho hư hoại cây trái,

Giết luôn cả muôn triệu trong một lần.

Làm bom đạn nổ xẹp địa cầu,

Nó mê hoặc cho cả nhơn sanh.

Luôn phá hoại NGƯỜI – TRỜI – PHẬT,

Người như thế ác độc hơn MA VƯƠNG.

Tự tạo quỷ ma chiêu kỳ họa,

TA thương cũng không cứu họ được.

 

Sự thật nếu là NGƯỜI làm THÚ,

Ăn thịt thì lại dữ hơn THÚ.

Ôi! Tai hại biết dường nào,

Còn NGƯỜI tiến hóa, hiền lương có đạo.

Không bận tâm lúc sanh tử đến,

Khi ra đi êm ái nhẹ nhàng.

Luôn làm sự lành tốt đẹp,

Giúp muôn loài thăng tiến được an vui.

Nuôi dưỡng môi trường luôn trong sạch,

Biết bảo hộ thiên nhiên vạn vật.

Thật là quý báu vô cùng,

Thế là họ đã tự biết đường đi.

Nào cần phải đợi ai lo lắng,

Lo cho mà giữ gìn binh vực.

 

Chúng sanh là học trò mới học,

Từ cái không biết đến cái biết.

Mục đích là phải lên lớp,

Để mau thi đậu, đến chốn nghỉ ngơi.

Ai đi trước thì sẽ đến trước,

Ai đi sau thì sẽ đến sau.

Kẻ sau coi theo người trước,

Thân NGƯỜI dầu mất, mặt đất bỏ hoang.

Nếu như nghỉ học, rồi bải trường,

Lâu về sau  cũng có học trò.

Cũng có lớp học trò mới,

Thế hệ mới tụ lại rồi sanh ra.

 

Người sống trong cõi đời hiện hữu,

Không phải để đặng lo đúc giống.

Hoặc để lo ăn, mặc, ở…

Đua tranh nhau cấu xé giành danh lợi.

Quanh quẩn cuốn cuồn mãi trôi lăn,

Trong trần mộng sanh ra rồi diệt.

 

Kìa ai học giỏi rất yên tâm,

Người nào thi đậu rất vui mừng.

LỤC TRẦN chính là ĐỊA NGỤC,

Người TA sẽ bị chôn lấp nhận đè.

Kẻ đang bị LỤC DỤC lôi cuốn,

Bắt đi đem nạp để hành hình.

LỤC THỨC đau khổ chết đi,

Khó mà sống lại được, rất đáng tiếc.

Khổ quá thì phát ra cuồn điên,

Nếu điên thì sẽ bị tiêu diệt.

Khác chi là kẻ ở tù,

Càng hay giỏi, lại càng thêm trói buộc.

Nặng nề đau khổ lắm thay,

Luôn luôn chằng chịt đường cùng đến đâu.

 

Đã đành có trước mới có sau,

Có thấp rồi mới có cao được.

Nhưng lên cao rồi ngó xuống,

Thấy là thật dơ dấy và ghê sợ.

Những kẻ đã thoát được lên rồi,

Nên nghĩ lại mà biết thương xót.

Những ai mà tự trói buộc,

Mãng lo tham, sân, si nhiều tội lỗi.

CĂN BỔN ĐẦU TIÊN

NÓI TÓM LẠI:

Quả địa cầu trước kia bọt nước,

Mặt nước nầy nó có màng màng.

Tấm kiến kêu gọi SẮC TRẦN,

Cái thấy hình dạng gọi là SẮC CĂN.

Sự sống của nước gọi là SẮC THỨC,

Về sau chúng sanh có cái thức.

Thức xúc đối với SẮC TRẦN,

Sắc trần tương sanh ra là THỌ CẢM.

NHÃN CĂN cho sắc thân huyễn ngã,

Đế sống cho tiện lợi khỏi khổ.

Nước nó có đủ SẮC MÀU,

ĐẤT đụng chạm kêu khua là THINH TRẦN.

ĐẤT có lỗ trống tiếng vang nghe,

Thâu các thứ tiếng là THINH CĂN.

Lúc nào chúng sanh cũng có cái thức,

Xúc đối THINH TRẦN sanh THỌ CẢM.

Tư tưởng của NHỈ CĂN để cho:

Sắc thân huyển ngã khỏi khổ,

Sống cho tiện lợi, ĐẤT có đủ giọng.

CỎ do nước, đất, lửa, và gió,

Không thường nên sanh ra lắm mùi.

Cho nên gọi là HƯƠNG TRẦN,

CỎ có lỗ hơi hít thâu các mùi.

Các mùi đó gọi là HƯƠNG CĂN,

Sự sống của cỏ gọi là HƯƠNG THỨC.

Cho nên chúng sanh có thức,

Xúc đối với hương trần sanh THỌ CẢM.

TỶ CĂN cho xác thân huyển ngã,

Để sống cho tiện lợi khỏi khổ.

Thế nên: CỎ CÓ ĐỦ MÙI.

 

CÂY do mùa tứ đại thay đổi,

Nên sanh ra lắm vị khác nhau.

Gọi là vị TRẦN đó vậy,

CÂY bốn mùa tám tiết thường khác nhau.

Nên sanh lắm vị gọi vị TRẦN,

CÂY có lổ rút nếm các vị.

Kêu gọi đó là VỊ CĂN,

Sự sống của CÂY kêu là VỊ THỨC.

Về sau chúng sanh có cái thức,

Xúc đối VỊ TRẦN sanh THỌ CẢM.

THIỆT CĂN cho thân huyển ngã,

Để mà sống cho tiện lợi khỏi khổ.

CÂY là loài có đủ MÙI VỊ,

Và CÂY đã có THỌ CẢM GIÀ.

Nên cây có thể nhập thai,

Sanh làm NGƯỜI, hoặc THÚ hoặc thành MA.

THỌ CẢM từ THỨC sanh ưa chịu,

Nên cũng kêu đó là THỌ THỨC.

 

THÚ do ấm TỨ ĐẠI cây cỏ,

NÓ sanh ra đủ cách khác nhau.

Tác dụng gọi là xúc TRẦN,

Thân hình có đủ tay, chân, đi, đứng.

Nắm rờ đồ vật là xúc CĂN,

Sự sống của THÚ là xúc THỨC.

Về sau chúng sanh có thức,

Xúc đối với xúc TRẦN sanh THỌ CẢM.

THÂN CĂN là xác thân huyển ngã,

Để sống cho tiện lợi khỏi khổ.

THÚ nó có đủ thân thể,

THÚ là loại đã có TƯ TƯỞNG GIÀ.

Nên THÚ có thể nhập thai THÚ,

Hoặc làm NGƯỜI, hoặc làm MA QUÁI.

Hay là sanh vào cõi TRỜI,

Tư tưởng là thức tưởng tượng.

Nên cũng kêu là TƯỞNG THỨC.

 

NGƯỜI là loại THÚ tiến hóa ra,

Bởi nó có tay, chơn, rờ, xúc.

Lâu ngày mới sanh các pháp,

Khéo hay chế biến các việc mở mang.

Luôn theo sự vô thường tương đối,

Mà sanh ra kêu là PHÁP TRẦN.

Người hay lo nhớ tưởng rằng:

Về các sự việc, kêu là PHÁP CĂN.

Sự sống NGƯỜI kêu là pháp thức,

Cái thức xúc đối với PHÁP TRẦN.

Sanh ra thọ cảm tư tưởng,

Tượng Ý CĂN cho nơi THÂN khỏi khổ.

Loài NGƯỜI có đẩy đủ phương pháp,

Và NGƯỜI đã có HÀNH VI GIÀ.

Có thể nhập thai NGƯỜI – THÚ,

Hoặc làm TRỜI, có thể TU THÀNH PHẬT.

Hành vi nầy là THỨC cử động,

Cũng kêu gọi là HÀNH THỨC vậy.

Ý CĂN chính là sự muốn,

Là sự cố chấp rất mạnh của THỨC.

Sau khi chết rồi sẽ bỏ thân,

Ý CĂN còn là một cái bóng.

Thức trí của NGƯỜI không tan,

Gọi là bóng vía, hay là thần hồn.

Nếu bậc có tu luyện rèn tập,

Tư tưởng tu tập định vững vàng.

Có thể biết rõ xuất nhập,

Ra vào và biến hóa như TRỜI – PHẬT.

Hoặc có thể tựa như MA – QUỶ,

THIỆN hay ÁC, CHÁNH hay TÀ,

Cái hình bóng ấy, MA QUỶ là ĐEN.

Có thể có khi nó tan mau,

Của TRỜI thì TRẮNG bởi do THIỆN.

Và thường nó lâu tan hoại,

Thức trí của ĐỨC PHẬT thì trong suốt.

Chói rực sắc vàng, gọi KIM THÂN,

Đời đời kiếp kiếp không tiêu hoại.

Bởi do bậc có trí huệ,

CHƠN NHƯ và không có các sở chấp.

Thân ấy mới thiệt là CHƠN THÂN,

BÁO THÂN hay gọi là PHÁP THÂN.

Cũng kêu gọi là THÂN THỨC,

Hay là thân sống, thân của cái sống.

THÂN THỨC sống ấy do phát sanh,

Do từ nơi ấm của TỨ ĐẠI.

Trước tiên từ nơi CỎ sanh,

Đó chính là nơi TỨ ĐẠI hợp thành.

CỎ mọc lên bởi phía dưới ĐẤT,

Nên đâm vượt lên khoảng trống không.

Bởi có rể nuôi sống thân,

Nó rút chất nhựa từ nơi phía dưới.

Nên lá ngọn càng vượt lên mãi,

Ấm nhựa nó không tròn hay dài.

Mọc từ nơi kẹt đất đá,

Bởi càng nở lớn, mà mọc tay chân.

Cũng gọi là miệng nó ăn đất,

Khi mà nó vượt khỏi đất rồi.

Gặp sương tuyết hay nắng mưa,

Nó vươn nhóng lên, đâm tủa hứng ăn.

Khắp mình cây đều có lỗ trống,

Chính là miệng, khi thiếu ăn uống.

Biết bò nó ngã theo phía,

Nơi nào có nước, đất để kiếm ăn.

CỎ là một vật sống tùy duyên,

Do cảnh mà nương sanh hình thể.

Theo loài NGƯỜI mà gọi là,

Nhánh, lá của nó là ở bên trên.

Chớ còn khi các loại côn trùng,

Ở trong đất xem rể cỏ nầy.

Chính là tàn nhánh ở trên vậy.

 

Thân THÚ thân NGƯỜI nơi khoảng trống,

Là theo thể thức của CỎ CÂY.

Ở nơi từ trên mặt ĐẤT,

Đó là nguồn gốc của sự SANH THÂN.

CÂY – CỎ trong đất nước sanh ra,

Nên từ ĐẦU đến MIỆNG ở dưới.

Đuôi miệng, ngọn nhánh ở trên,

Trái hoa là chất tinh ba hột giống.

Phân tiểu của cỏ cây tuôn ra,

Trên là mủ và chất thúi dơ.

Cái THỨC của loài THÚ nầy,

Vì duyên cảnh khổ ép ngặt tượng sanh.

Đầu đuôi luôn ngang nhau, bằng nhau,

Khi đến loài NGƯỜI, đầu trở lên.

Chân dưới, hình thể, thân tướng,

Mỗi lúc đều tùy duyên mà biến sửa.

Do nơi THỨC mà nẩy sanh,

Và sự ép ngặt thật là đau khổ.

 

Cái THỌ CẢM của CÂY giống như:

Một làn hơi trong không gian vậy.

Còn TƯ TƯỞNG của THÚ là:

Nơi làn khói ấy, kết đặc thành hình.

Theo thân thể cố chấp của nó,

Tưởng tượng rồi thành ra của nó.

Đến nơi hành vi của NGƯỜI,

Là một hình bóng rỏ rệt của THỨC.

Và khi đến tuổi của ĐỨC PHẬT,

Thì hình bóng ấy lại không tan.

Và màu sắc của THỨC THÂN,

Lại do nơi sự THIỆN – ÁC các pháp.

Thân thể sanh có từ nơi cỏ,

Hình bóng có ở từ nơi thân.

Thảy đều là do nhân duyên,

Nó tập lần lần rồi sanh nảy ra.

 

Cho đến NAM căn hay NỮ căn,

Lúc nào cũng tương đối là vậy.

Không phải là ai cho NAM,

Hay ai cho NỮ để sanh sản cả.

NAM – NỮ phát sanh tại loài CÂY,

Loài CỎ - THỨC tượng hình theo duyên.

Bởi do nắng mưa thay đổi,

Pháp tương đối nơi ngoài, sanh cảm giác.

Khi ưa vầy, lúc thì chịu khác,

Đó chính gọi là kêu THỌ CẢM.

THỌ CẢM đều có hai loại:

Hết THƯƠNG đến GHÉT, hết KHỔ đến VUI.

Hết MỪNG rồi đến lúc lại GIẬN,

Hết THÍCH ƯA rồi đến NHÀM CHÁN.

Khi thì MUỐN lúc lại CHÊ,

THỌ THỨC thay đổi theo chiều MƯA – NẮNG.

Pháp nầy tương đối nơi bên ngoài,

Nơi THỌ CẢM tức là TÌNH DỤC.

Phát sanh khởi từ nơi CỎ,

CỎ nầy có THỌ CẢM sẽ thành CÂY.

CÂY có ÂM – DƯƠNG luôn tương đối.

ĐỰC – CÁI theo duyên cảnh mà sanh,

CÂY có tư tưởng sanh THÚ.

THÚ có đực cái theo hình thức CÂY,

Loại NGƯỜI đều có NAM. Có NỮ.

Là bởi hình thức hiện theo THÚ,

TRỜI còn bóng thức của NGƯỜI.

Nên luôn có TIÊN NỮ và TIÊN NAM,

Chỉ ĐỨC PHẬT cái sống tự nhiên.

Luôn CHƠN PHẬT và sống tuyệt đối.

Không phân biệt, đã trọn sáng,

Trọn lành cho đến hết khổ trọn vẹn.

Tương đối PHÁP vô thường khổ não,

Còn khổ não, tức còn phân biệt.

Do cái TA chưa thuần nhất,

Muốn được thuần nhất, chúng ta phải buông.

 

Vậy cho nên ngay từ lúc đầu,

Khởi duyên CỎ CÂY sanh TÌNH THỌ.

Loại CÂY sanh có ĐỰC – CÁI,

Nhưng mà chúng nó chẳng hề giao dâm.

Đến loài THÚ có tư tưởng mạnh,

Khó dằn được mà liền giao cấu.

Chất tinh ba giống của cây,

THÚ – NGƯỜI sanh bông, trái, hột, trẻ con.

NGƯỜI còn nhục dục nên theo THÚ,

TRỜI biết là sái quấy khổ hại.

Nên từ bỏ, mà vượt lên,

ĐỨC PHẬT là CHƠN NHƯ luôn trong sạch.

KHÔNG KHÔNG tự nhiên khi GIÁC NGỘ,

Đã là BẬC GIÁC NGỘ kinh nghiệm.

Học rồi thấu suốt rõ rồi,

Mau lo TỈNH THỨC, an vui tịnh nhàn./

-----ooOoo-----

BÀI LIÊN QUAN

Thần Mật (Chơn lý số 25)  ( NT. Minh Liên , 4920 xem)

Công Lý Võ Trụ (Chơn lý số 10)  ( NT. Minh Liên , 4468 xem)

Chánh Đẳng Chánh Giác (Chơn lý số 9)  ( NT. Minh Liên , 4980 xem)

Nam và Nữ  ( NT. Tuyết Liên (chuyển thơ) , 4064 xem)

99 năm - Vầng dương hiện thế  ( Ngọc Hạnh , 4524 xem)

Ứng dụng tinh thần Đạo đức của Tổ Sư trong thời kỳ Hội nhập - Phát triển  ( Nguyện Liên , 7004 xem)

Tư tưởng Thiền của Tổ sư Minh Đăng Quang trước môi trường sống và gội sạch tâm thức tự thân  ( Hòa thượng Giác Toàn , 9680 xem)

Lời tưởng niệm của Ni giới Hệ phái Khất sĩ  ( Ni Giới Khất Sĩ , 9856 xem)

Sợi chỉ Chơn lý nhiệm mầu  ( Hòa thượng Giác Toàn , 6968 xem)

Hoà thượng Giác Toàn thuyết giảng về con đường tìm lại chính mình  ( Ban TTTT Hệ phái , 7944 xem)

Ý KIẾN BẠN ĐỌC


NI TRƯỞNG HUỲNH LIÊN
  • Thích Nữ Huỳnh Liên
  • Thích Nữ Huỳnh Liên
  • Thích Nữ Huỳnh Liên

 

Nguyện xin hiến trọn đời mình

Cho nguồn Đạo pháp cho tình Quê hương

 

THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ
  • Thích Nữ Bạch Liên
  • Thích Nữ Thanh Liên
  • Thích Nữ Kim Liên
  • Thích Nữ Ngân Liên
  • Thích Nữ Chơn Liên
  • Thích Nữ Quảng Liên
  • Thích Nữ Quảng Liên
  • Thích Nữ Tạng Liên
  • Thích Nữ Trí Liên
  • Thích Nữ Đức Liên
  • Thích Nữ Thiện Liên
THÔNG BÁO

Thông báo Khóa Bồi dưỡng đạo hạnh lần thứ 8 do Ni giới Hệ phái Khất sĩ tổ chức

Tiếp theo thời khóa tu học trong 3 tháng An cư là chương trình 10 ngày bồi dưỡng đạo hạnh lần thứ 8 cho chư Ni NGHPKS, bắt đầu từ chiều mùng 1 tháng 7 đến ngày 11 tháng 7 năm Giáp Thìn (nhằm ngày 4/8/2024 – 14/8/2024) tại Tổ đình Tịnh xá Ngọc Phương (Số 498/1 đường Lê Quang Định, Phường 1, quận Gò Vấp, Tp. HCM)

Thông báo khóa Bồi dưỡng đạo hạnh lần 9 do Hệ phái Khất sĩ tổ chức

Nhằm nâng cao đời sống Phạm hạnh và thắp sáng lý tưởng giải thoát, giác ngộ và phụng sự Đạo pháp cho các Tăng Ni trẻ vừa bước chân vào đạo, Hệ phái Khất sĩ mỗi năm tổ chức một khóa BỒI DƯỠNG ĐẠO HẠNH tại Pháp viện Minh Đăng Quang (505 Võ Nguyên Giáp, phường An Phú, TP. Thủ Đức, TP. HCM) dành cho các Sa-di, Sa-di-ni và Tập sự.

Thư mời viết bài Tập san Đuốc Sen - số 35 chủ đề Lễ tự tứ Tăng và Vu lan Báo hiếu

Thư mời viết bài Tập san Đuốc Sen - số 35 chủ đề Lễ tự tứ Tăng và Vu lan Báo hiếu

Thông báo Lớp Giáo lý trực tuyến

Thời gian tụng kinh, thuyết giảng trực tuyến như sau: Tụng kinh: Hàng ngày từ 6g30 – 7g15 tối là thời khóa tụng kinh Dược Sư, các ngày sám hối trì tụng Hồng Danh Bửu Sám Thuyết giảng: 7g30 – 8g30 tối hàng ngày

VIDEO HÔM NAY

Trực tiếp: Phiên Bế mạc Hội thảo Khoa học Ni trưởng Huỳnh Liên tại Pháp viện Minh Đăng Quang - Ban Truyền hình Trực tuyến PSO

Pháp âm MP3

  • 0 - Lời Mở Đầu
  • 01 - Võ Trụ Quan
  • 02 - Ngũ Uẩn
  • 03 - Lục Căn
  • 04 - Thập Nhị Nhơn Duyên

LỊCH VIỆT NAM

THỐNG KÊ