Trang chủ > Văn Hoá > Xuân
Tức Tâm tức Phật - Mùa xuân tâm linh
Xem: 12820 . Đăng: 29/01/2025In ấn
Tức Tâm tức Phật - Mùa xuân tâm linh

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm Cơ Duyên có ghi lại câu chuyện, một hôm có học nhân đến tham vấn Lục tổ Huệ Năng, hỏi: “Thế nào là tức tâm tức Phật?”, Tổ sư đáp: “Thành tất cả tướng tức tâm, lìa tất cả tướng tức Phật”. Sau một thời gian dài tu tập, soi quán… tôi dần dần cảm nhận.
Hiệu hữu, mỗi người chúng ta đều có xác thân tứ đại giả hợp giống nhau. Chúng ta có thân, khẩu và ý. Thông thường, chúng ta hay bám víu, chấp thủ vào thân, khẩu, ý của mình; cho rằng nó là mình, của mình (ngã và ngã sở…). Cho nên, trong cuộc sống sở dĩ tôi vui nhiều hay buồn nhiều là do tôi thấy, tôi nghe, tôi biết, tôi cảm xúc v.v... điều tốt đến tôi vui, điều xấu đến tôi buồn, đó là sở chấp của phàm phu, của chúng sanh mà trong nhiều đời, nhiều kiếp… mỗi người chúng ta do tâm thức vô minh chi phối, tích luỹ… làm nên cái ngã và ngã sở của riêng mình.
Ngày nay, khi có duyên đến với đạo đức, biết được Phật pháp, nương nhờ ánh sáng trí tuệ của đức Phật và chư vị Tổ sư giúp mình nhìn lại soi sáng nơi chính mình. Một khi mình cảm nhận ra được thân nầy là một khối giả hợp, lúc nào đó nó sẽ tan rã và trở về với cát bụi tứ đại thì mình cũng chẳng có gì! Cho nên, khi đã đến với đạo và hiểu đạo rồi thì mình phải xác lập cái tâm, hiểu biết nó một cách chắc chắn, tự buông bỏ sở chấp giả hợp nơi mình mà biết “Tá giả độ chơn, dĩ huyễn độ chơn” tức nương cái thân tạm giả để tu hành, lập tâm tu tập và hành đạo, tự trau dồi, tự rèn luyện “thành tất cả tướng tức tâm”; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý… của mình lâu nay nó quen chấp thủ theo phàm phu; cho rằng tôi thấy, tôi nghe, tôi cảm xúc, tôi biết… tôi buồn, vui v.v... nay hiểu đạo tôi không chấp thủ nữa, tự rõ biết mọi vật sở hữu nơi tự thân hay chung quanh đều giả hợp; chủ động bằng một nhận thức mà mọi hành động, lời nói và tâm niệm đều hiền thiện để thay thế cho cái xấu, quấy, ác lâu nay.
Và rất rõ ràng, lòng tu tập của chúng ta càng chí thành chừng nào thì các căn, các tướng của chúng ta càng mau thành tựu chừng đó. Cho nên, các tướng mà người tu cần mau đạt đến chính là các căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý làm thế nào cho nó được thuần thiện, không còn một chút mải mai xấu, quấy, ác, lúc đó chính là “thành tất cả tướng tức tâm” vậy. Khi đó, mọi người đối diện sẽ hoan hỷ với mình, rõ ràng tướng đi, đứng, ngồi, nằm… giống như Phật. Ngược lại, chúng ta sẽ bị chê, bị phàn nàn, người tu gì mà không giống Phật, Tổ một chút gì hết. Đến đây, chúng ta mới cảm nhận ra được nét hay, nét đặc sắc của nhà Phật là hạnh ly xả. Được rồi buông bỏ tất cả, không trụ chấp. Điều nầy được Tổ sư Huệ Năng khai thị “Thành tất cả tướng tức tâm, lìa tất cả tướng tức Phật”.
Đã quyết tu rồi thì phải nỗ lực vươn lên, tu tập rèn luyện các căn, các tướng (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) cho được thuần thiện, thuần thục, thuần tịnh… cho thật hiền, thật đẹp… Nhưng đến khi được tất cả rồi thì phải tiến lên một bước nữa là học và thực hành hạnh ly xả giải thoát của đức Phật thì mới có thể đạt được mục đích thành tựu rốt ráo, đỉnh cao của người tu là “lìa tất cả tướng tức Phật”. Người đời, theo một lý tưởng, một mục đích… đến khi đạt được thì mừng lắm vì thấy “tôi được” rồi chấp thủ theo cái được đó để chấp khổ. Người Phật tử xuất gia, tại gia tu tập đức hạnh cao thượng thì phải khác một chút, giai đoạn đầu quyết tinh tấn để đạt mục tiêu, nhưng khi đạt rồi thì không chấp thủ mà phải ly xả…thì mới gọi là thật được của người tu giải thoát tự tại. Cho nên, Tổ sư dạy “Lìa tất cả tướng tức Phật”.
2. MUỐN TÌM GẶP TÂM PHẬT, TRƯỚC HẾT HÃY NHẬN BIẾT RA TÂM CHÚNG SANH CỦA CHÍNH MÌNH
Tổ sư Huệ Năng, vị tổ thứ 6 của thiền tông Trung Hoa. Thuở thiếu thời, Ngài có đời sống rất gian nan, bất hạnh, mồ côi cha từ nhỏ, vừa lớn lên đã phải đi nhặt củi đổi gạo nuôi mẹ, không được học hành, dốt nát một chữ cũng không biết; nhưng bù lại, căn tánh rất lanh lợi. Năm Ngài được hai mươi bốn tuổi, trong một lần đi giao củi tận nhà người mua, tình cờ nghe một câu kinh Kim Cang mà tỏ ngộ đạo mầu. Trên đường hoằng hoá độ sanh, Lục tổ có một phương pháp khai thị cho học nhơn rất đặc sắc. Đa phần hành giả tập tu thường rất muốn sớm tìm ra tâm Phật nơi mình. Điều nầy, được Lục tổ Huệ Năng chỉ bày một phương cách rất hay và vô cùng thực tế “Muốn tìm ra tâm Phật của mình, trước hết phải nhận ra tâm chúng sanh nơi mình”.
2.1. Nương lời Phật dạy thấy rõ “tâm ngu” của mình
Nhân mùa xuân Tân Mão, năm con mèo, mà con mèo thì căn tánh rất lanh lợi, thông minh, sắc sảo… Chúng ta, những người con Phật xuất gia và tại gia hãy nương thời duyên hội tụ nầy, nương ý pháp Lục tổ, đặc biệt nương “Lời vàng vi diệu” trong kinh Pháp Cú của đức Phật dạy để chúng ta nhận ra thật rõ tất cả những tướng trạng phàm phu chúng sanh đã tích tụ, ẩn náu nhiều đời, nhiều kiếp nơi thân, khẩu, ý của mình. Một khi đã nhận ra và đoạn trừ được những tâm tánh ngu ác, xấu quấy nơi mình rồi thì nhất định tâm Phật sẽ hiện bày. Trước hết, nơi phẩm Ngu, đức Phật dạy:
“Người ngu gần trí trăm năm
Chánh pháp chẳng hiểu, chẳng thâm đạo mầu
Y như muỗng múc canh sầu
Ngày ngày hương vị ngọt ngào vô tâm”.(PC. 64)
Quả đúng như vậy, khi mình chưa thích tu thì dù hương vị đạo có thâm thuý cao siêu bao nhiêu đi nữa mình cũng chẳng màng, y như cái muỗng múc canh, dù nằm trong tô canh cả đời cũng chẳng thể nào hiểu được mùi vị ngon ngọt của canh; ngược lại:
“Người trí khoảnh khắc chào thăm
Chánh pháp tỏ ngộ trăng rằm mở khai
Tựa như lưỡi nếm vị này
Vừa tiếp xúc đã biết ngay ngọt bùi”.(PC. 65)
Khi mình biết tu và thích tu… thì chẳng khác nào cái lưỡi, vừa nếm đã biết hương vị ngọt bùi của canh; tức ta sẽ nhận ra ngay sự thâm diệu của cõi đạo. Khi đó, chúng ta còn có thể lột bỏ tâm thức vô minh, tự ngã nhiều đời nhiều kiếp ngăn che nơi mình:
“Người biết mình ngu, trí hơn
Ngu mà tưởng trí, ấy buồn ngàn thu
Sống đời tỏ ngộ trí ngu
Mới thật là trí, thoát mù tĩnh tâm”.(PC. 63)
Tinh thần tỉnh giác của con người mình rất cao. Khi đã cởi bỏ được lớp vỏ tự ái, tự ngã, tự ty của vô minh rồi thì tức khắc sẽ biết mình phải làm gì để khẳng định vị trí của mình trong cuộc sống:
“Kẻ hơn mình chẳng được thân
Kẻ ngang mình chẳng được gần tâm giao
Thà rằng cô độc ra vào
Tốt hơn kết bạn huynh bào kẻ ngu”.(PC. 61)
Sống trong đời mà biết làm chủ cuộc sống của chính mình, biết kiềm chế thân, khẩu, ý…; biết những người bạn nào nên gần và không nên gần; biết sống một mình mà không cảm giác buồn khổ thì nhất định từng bước mình có thể xa lìa hẳn cảnh giới ngu của chính mình.
2.2. Nương lời Phật dạy thấy rõ “tâm ác” của mình
Bên cạnh, trong đời sống hằng ngày, con người mình cũng phải biết nhận ra để xa lìa những điều quấy ác còn ẩn náu nơi chính mình.
Trong phẩm Ác, câu 117, đức Phật đã dạy:
“Một khi lỡ làm ác rồi
Tự giác chớ để tăng đôi lỗi lầm
Việc ác cứ mãi cố làm
Nhân ác thọ khổ, quả thâm thêm hoài”.
Trong đời sống hằng ngày, tự biết nhận ra điều thiện, điều ác là không phải dễ. Nhất là khi đã phạm lỗi lầm mà biết tự nhận ra và biết dừng lại, không cho mình tiếp tục gây tạo thêm lỗi lầm nữa, để không phải nhận thêm quả báo khổ sầu thì đây đúng là tâm thức đã thoát ngu, tự chủ sống trong trạng thái sáng suốt. Thông thường, con người hay bị nghiệp ác lôi cuốn chạy theo mồi danh bã lợi mà cứ lầm tưởng là vui; đến một ngày nghiệp ác chín muồi, quả khổ vây kín triền miên, con người mới chợt tỉnh; cũng trong phẩm Ác, câu 119, đức Phật đã nhấn mạnh:
“Khi nghiệp ác chưa chín muồi
Kẻ ác lầm tưởng là vui, làm hoài
Khi ác nghiệp chín muồi say
Quả báo liên tục tháng ngày đảo điên!”.
Và chính điều nầy cũng là đối tượng thử thách đối với người làm thiện mà quả chưa thành, chưa đến:
“Khi nghiệp lành chưa đủ duyên
Người lành tưởng khổ, than phiền cực thân!
Khi nghiệp lành trổ quả nhân
Sắc hương bát ngát vạn phần báu châu”.(PC. 120)
Trên nền tảng thực tế cuộc sống, câu kinh 121 đức Phật đã gieo ánh sáng giáo pháp, giúp con người thấy rõ sự tích tụ và nhân quả chín muồi của nghiệp ác:
“Chớ khinh ác nhỏ… không đâu
Chẳng đem lại quả báo sầu cho ta!
Dòng thời gian trổ nụ hoa
Nhỏ giọt tích tụ hoá ra đầy bình
Ngu phu sở dĩ khổ tình
Do hành động ác tự mình tạo ra!”.
Ngược lại, câu 122 đức Phật cũng chỉ dạy chúng ta phải biết nhẫn nại, không xem thường, không bỏ qua những việc lành nhỏ trong đời:
“Chớ khinh lành nhỏ… bỏ qua
Chẳng đem quả báo vạn toà cho ta!
Dòng thời gian trổ nụ hoa
Nhỏ giọt tích tụ hoá ra đầy bình
Người trí sở dĩ thông minh
Nhờ biết gom kết thiện lành dài lâu”.
Nếu trong cuộc sống, mình không tự biết làm chủ hành động của mình, si mê tạo nghiệp, một khi đã vướng nghiệp xấu ác rồi thì dù đi đâu, ở đâu… con người cũng không tránh khỏi quả báo, câu kinh 127 chỉ rõ:
“Chẳng phải bay lên không hư
Hay là lặn xuống biển sâu tột cùng
Núi rừng thăm thẳm mông lung
Thế gian khắp chốn điệp trùng ngàn khơi
Cũng không trốn khỏi nghiệp đời
Nhân quả công lý ứng thời hạo nhiên”.
Và có một điều mình tưởng chừng bất ngờ, đó là cái chết trong báo ứng nhân quả như luôn chờ đợi mình, câu kinh 128 đã nêu:
“Chẳng phải bay lên không thiên
Hay là lặn xuống biển huyền thẳm sâu
Núi rừng xanh biếc trời cao
Thế gian khắp chốn trần lao mịt mờ
Tử thần đang đợi, đang chờ
Nhân quả tương ứng đúng giờ túc duyên”.
Đức Phật là bậc thầy của trời, người, Ngài thấy rõ đường đi lối về của nghiệp. Với tâm lực “đại từ đại bi”, đức Phật đã vạch ra và chỉ cho con người cách thức nhận ra nghiệp, chủ động dừng lại để tránh nghiệp quả xấu.
Câu kinh 222 và 223, đức Phật dạy:
“Người nào ngăn được sân si
Xe đang chạy mạnh dừng thì được ngay
Mới là người chế ngự tài
Nếu không chỉ gọi hờ ngoài ích chi!”
“Lấy từ bi thắng sân si
Lấy hiền lành thắng bạo uy hung tàn!
Lấy bố thí thắng tham xan
Lấy chơn thật thắng ngụy gian ác tà”.
2.3. Nương lời Phật dạy... giữ tâm “tàm quý” nhiếp phục thị phi khen chê ở đời
Đồng thời, trong quá trình sống và tiến hoá, lòng tự ái của con người thường hay bị thử thách bởi những thị phi, khen chê... ở đời. Người không sáng suốt, không khéo tu rất khó vượt qua. Câu 227 và 228 đã ghi rõ:
“Phật tử nên biết trần gian
Nay, xưa đều bị lắm đàng gièm pha
Nín, nói đều bị chua ngoa
Nói nhiều, nói ít đều là bị chê
Làm người không bị xiểm dè
Thế gian này khó trăm bề vô phương”.
“Không ai bị chê mọi đường
Không ai được cả mười phương khen vì
Quá khứ, vị lai... cổ hy!
Tìm đâu ra bậc trí bi vẹn toàn”.
Do vậy, đức Phật đã vạch ra cho người tu, người trí một hướng đi đích thực qua câu kinh 234:
“Người trí tích thiện mỹ chân
Cả ba thân khẩu ý phần điều nhu
Ngày ngày hoàn thiện vô ưu
Đạo quả an trú thiên thu đức mầu”.
Muốn giữ vững thái độ sống của người trí thật không phải dễ. Bởi người trí là người luôn tỉnh giác, tàm quý nơi tự thân như đức Phật đã dạy:
“Sống biết hổ thẹn ăn năn
Không đắm dục lạc, thường hằng tịnh thanh
Khiêm tốn, trong sạch thiện lành
Dồi dào kiến thức, tinh anh phép đời”.(PC. 245)
“Thế gian ai phạm đạo người
Sát sanh, trộm cắp, nói cười điêu ngoa
Tửu sắc say đắm la cà
Hành vi như thế đúng là tự gây
Ngay trong hiện kiếp đời này
Thiện căn tự bỏ, tạo vay khổ sầu”.(PC. 246 & 247)
“Nên biết ngăn ác làm đầu
Ác là tự chuốc lo rầu vào thân
Điều phi pháp, điều tham sân
Sa vào thống khổ quả nhân vô vàn”.(PC. 248)
Nếu không “tàm – quý” con người dễ gì mà không bị các lửa “tham, sân, si” của mình sai sử, thiêu đốt mình và thường bị vô minh che lấp, thường ưa thấy lỗi người mà ít khi nhận ra, thấy được lỗi nơi chính mình như các câu:
“Không lửa nào bằng dục tham
Không cố chấp nào bằng sân, giận hờn
Không lưới ngu nào buộc hơn
Dòng sông ái dục thượng nguồn chảy tuôn”.(PC. 251)
“Lỗi người dễ thấy, dễ buồn
Lỗi mình khó thấy, lại thường dễ quên
Lỗi người, cố bươi móc tìm
Lỗi mình cố giấu, như ghìm bài gian”.(PC. 252)
“Thấy lỗi người nóng giận tăng
Thêm phiền, thêm não lòng hằng chấp nê
Nếu bỏ phiền não quay về
Tướng tánh an tịnh bồ đề tịch chơn”.(PC. 253)
Nhờ có ánh sáng tuệ giác của đức Phật giúp người tu chúng ta soi sáng được trong ngoài, nhân ngã bỉ thử; không bảo thủ lỗi mình, không chấp nhất lỗi người. Hằng ngày thường tự nhận ra lỗi mình để đoạn lìa nên thường vui mừng (tức hỷ) và mỗi khi thấy biết lỗi người thì không buồn chấp mà còn biết rõ căn cơ nghiệp lực của chúng sanh (nên xả) không sân, không giận.
2.4. Nương lời Phật dạy thương người, thương đời với tâm “đại hỷ - đại xả”
Con người khi thân chứng được pháp hỷ xả rồi thì có khả năng phá vỡ được địa ngục trói buộc nơi mình và chung quanh như Bồ-tát Địa Tạng vào cảnh giới địa ngục cứu độ chúng sanh mà không hề bị khổ não chi phối. Thực ra, cảnh giới địa ngục đó ở đâu? Và làm thế nào để có thể nhận ra và thoát qua? Đó chính là nghiệp quả trói buộc nơi thân, khẩu, ý của mình. Làm người ai cũng mang thân, khẩu, ý như nhau; nhưng người khéo tu thì thân, khẩu, ý thanh tịnh, ít nghiệp; còn người vụng tu thì thân, khẩu, ý không thanh tịnh, nghiệp nhiều, bị nghiệp trói buộc nên thường có hành động, lời nói, ý tưởng sái quấy, đau khổ như địa ngục vây quanh. Câu kinh 308 và 306, đức Phật đã chỉ rõ:
“Tu hành phágiới, sân tham
Thànuốt sắt nóng, lửa hầm đốt thân
Còn hơn thọlãnh phước phần
Không tu, hừng hực quảnhân báo đền!”
“Thường nói vọng ngữ sai lời
Không thời nói có, cóthời nói không
Người tạo hai nghiệp lòng vòng
Chết đọa địa ngục, tâm tòng tội mang”.
Và câu 311, đức Phật đã nhấn mạnh cho người xuất gia:
“Cỏ thơm tỏa ngát khắp vùng
Nghe mùi tham đắm lẫy lừng mê say
Quờ quạng, vụng nắm đứt tay
Sa môn tà hạnh đọa ngay ngục sầu”.
Những cảnh giới địa ngục lớn chính là những ngộ nhận, câu nệ, cố chấp rất mâu thuẫn trong tâm tánh của mỗi người. Như đức Phật đã chỉ bày trong các câu 316, 317, 318:
“Không đáng hổ, chớ khổ sầu
Việc đáng hổ... lại không sầu không lo
Tà kiến (1) ôm chấp bo bo
Địa ngục khổ nạn, khó dò thoát ra”.
“Không đáng sợ, chớ dần dà
Việc đáng sợ, lại vào ra kiếm tìm
Ngờ vực, mê hôn, tỵ hiềm
Tà kiến ôm khổ, đức hiền khó dung”.
“Không lỗi, tưởng lỗi trùng phùng
Lỗi tưởng không lỗi, tướng tùng tâm sinh
Tà kiến địa ngục vô tình
Trụ chấp tà kiến, vô minh ngục sầu”.
“Lỗi biết rằng lỗi, tiêu dao
Không lỗi biết chẳng lỗi nào vào ra
Giữ tâm chánh kiến ba la
Đường lành phúc quả ma ha phong trần
Phúc họa như áng phù vân
Hợp tan, lành dữ trong ngần tướng tâm
Đạo mầu vô thượng thậm thâm”.(PC. 319)
2.5. Nương lời Phật dạy soi sáng, đoạn lìa “tâm ái dục” sâu thẳm trong lòng mình
Làm thế nào để nhận ra được nghiệp ái dục trong sâu thẳm của lòng để đoạn lìa? Phẩm Ái dục thứ 24, những lời dạy của đức Phật hết sức tường tận, đáng lo ngại và tự mỗi người mình có đủ phúc duyên để nhận ra, soi sáng nghiệp thức ẩn náu trong tâm tánh mình hay không? Thường thì đã là nghiệp thì rất khó thấy, vì nó bị ngăn che bởi màng vô minh mê chấp của chính mình. Các câu kinh 334, 335, 336, 337... đức Phật đã phơi bày nghiệp ái của con người rất rõ ràng:
“Người buông lung, tham ái sanh
Tràn lan như cỏ mọc nhanh vườn rừng
Đời này, đời khác không dừng
Như vượn tìm trái tưng bừng chuyền cây”.
“Người sống trên thế gian này
Bị ái dục buộc biết ngày nào ra!
Sầu khổ chồng chất sanh già
Gặp mưa như cỏ tỳ la lan dần”.
“Người sống giữa chốn hồng trần
Nhiếp phục ái dục khó khăn khôn cùng
Như mưa sầu rụng trời đông
Cành sen giọt nước khó lòng đọng lay”.
“Điều lành ta bảo cho hay
Ái dục nhổ sạch, đức tài ai hơn!
Cỏ tỳ la muốn sạch trơn
Phải nhổ tận gốc lụy hờn hết vương
Chớ cho ma sầu náu nương
Như cỏ lau gặp môi trường tăng nhanh”.
Gốc rễ của nghiệp ái dục rất sâu, nếu người tu không đoạn tận gốc rễ khi gặp duyên nó sẽ mọc lên rất nhanh! Người Phật tử tại gia dùng tinh tấn tụng kinh, niệm phật, tu thiền hằng đêm... hễ gặp nghiệp ái chi phối sẽ bỏ đi chùa ngay; Tăng Ni xuất gia ở chùa cũng vậy, hễ gặp nghiệp ái chi phối thì cũng dừng tu ngay và nhanh đến độ mình không thể ngờ!
“Lòng ái dục chảy khắp nơi (2)
Như giống cỏ dại mọc thời tràn lan
Người nương cảnh, tuệ kiếm vàng
Đoạn hết ái dục đa mang phù trần”.(PC. 340)
“Những người trói buộc dục thân
Khác nào thỏ bị sa chân lưới sầu
Càng buộc ràng, càng khổ sâu
Yêu thương càng trói, dài lâu đau buồn”.(PC. 342)
“Những ai tư tưởng ác tà
Lòng hằng vọng động, ấy nhà bi tâm
Dục lạc tăng, tự trói thân
Càng thêm khổ não, càng nhân sầu buồn”.(PC. 349)
Trên đời nầy, đức Phật dạy nghiệp ái dục là sâu nặng nhất; cho nên có rất nhiều người đã thoát vượt được rồi thì không bao giờ quay lại, cũng không ít người dù đã vượt qua, đã rất cố gắng... nhưng rồi một lúc nào đó cũng lại bị quay ngược dòng rất bi thương. Hai câu 344, 345 đã phơi bày:
“Người đã lìa dục, nương về
Xuất gia vui chốn sơn khê lâm tuyền
Nay lại tái tục trần duyên
Hãy xem người đó, đảo điên chăng là!
Đường trần đã sớm bước ra
Nay tự trói buộc, vào nhà trái oan”.
“Người có trí, tỉnh mộng vàng
Bằng cây, bằng sắt buộc ràng dây gai
Chưa phải kiên cố sắc, tài
Vợ con luyến ái lòng này mới lo.
Tài sản tham chấp bo bo
Mới thật trói buộc, khó dò thoát ra!”
Sở dĩ ta bị trói buộc vì ta đi ngược dòng “tái tục trần duyên”, luyến ái vợ con, tham chấp tài sản. Nếu ta không “tái tục trần duyên”, không luyến ái không tham chấp tài sản, vợ con... thì nhất định ta không bị sự trói buộc của địa ngục tâm thức.
Các câu kinh 354, 355, 356... đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường ra khỏi sự trói buộc khổ đau:
“Bố thí, pháp thí, đại từ
Trong các chất vị, pháp thì thượng tôn
Các lạc, pháp hỷ là hơn
Trừ được ái dục, thoát nguồn khổ đau”.
Sự giàu sang tài sản nó dễ làm cho con người mù mờ tâm thức sáng suốt của mình:
“Giàu sang làm hại kẻ ngu
Không sang bờ giác, mây mù chấp nê
Người ngu tăm tối đi về
Tài dục che lấp ủ ê tâm người”.
Cho nên, người nào xa lìa được sự say đắm tham dục thì nhất định người đó thoát khổ:
“Cỏ làm hại ruộng vườn đời
Tham dục say đắm hại người biết bao!
Thế nhân thức tỉnh dồi trau
Lìa tham được phước, sang giàu thiện duyên”.
3. “BẢN LAI DIỆN MỤC” HAY NHẬN RA MÙA XUÂNTÂM LINH CỦA CHÍNH MÌNH
3.1. Thấy rõ con đường mình đi và sự nỗ lực hành trì nơi tự thân
Sau khi thấy rõ “tâm ngu, tâm ác, phẫn nộ, cấu uế và sự trói buộc của ái dục” nhiều đời nhiều kiếp rồi, chúng ta cần dõng mãnh giữ định hướng đi tới bằng sự hành trì của tự thân. Bởi đạo không phải là sự hiểu biết hay lời nói suông mà là “định – huệ” song hành. Phẩm Song Yếu, đức Phật đã dạy rõ nơi câu 20:
“Kệ kinh đọc tụng công phu
Nghiệm suy ý nghĩa, tập tu hành trì
Sáng chiều đoạn tham sân si
Thân tâm thanh tịnh, giữ y đạo hiền
Xa lìa thế tục trần duyên
Đời này, đời khác hạnh thiền Sa môn”.
Một khi đã có định hướng rồi thì phải thắng buông lung (lười biếng) tinh tấn dõng mãnh đi tới, với các câu 21, 22, 23:
“Không buông lung, hết tử sanh
Mãi buông lung… cửa chết dành người mê!
Người tinh tấn, không chết hề!
Kẻ biếng nhác như ma về cõi ma!”
“Người trí rõ biết thiền na
Nỗlực tinh tấn ba la mật lòng
Không buông lung, tánh tịnh trong
An vui cõi thánh, sắc không chẳng màng!”
“Dõng mãnh, kiên nhẫn tâm vàng
Thiền định, giải thoát đạo tràng tịnh tu
Người trí tinh tấn công phu
Niết bàn chứng nhập, vô ưu quả mầu!”
Đồng thời, đức Phật cũng xác lập con đường và pháp hành vững bền cho thầy Tỳ-kheo đi đến nơi, đến chốn:
“Tỳ-kheo tự thắng vô minh
Thắng lười biếng, thắng hữu tình buông lung
Phật khen như ngọn lửa hồng
Đốt thiêu phiền não (3) thoát vòng tử sinh!”(PC. 31)
“Tỳ-kheo tự thắng vô minh
Thắng lười biếng, thắng hữu tình buông lung
Phật khen họ gần Niết-bàn
Nhất định không bị buộc ràng dể duôi”.(PC. 32)
Luôn tỉnh giác trước dòng đời, khẳng định vị trí từ bùn nhơ vươn lên, xác lập phẩm hạnh tu tập và công hạnh độ sanh:
“Từ đống bùn nhơ trầm hôn
Hoa sen chớm nở tỏa thơm giữa đời.
Thanh khiết trong sáng tâm người
T- bà bụi bặm, rạng ngời chân nhân
Đệ tử chánh giác pháp thân
Trí tuệ soi chiếu thế trần độ sanh”.(PC. 58 & 59)
3.2. Luôn vượt lên chính mình, thắng mọi thử thách ngoại cảnh an trú, tịch tịnh nội tâm
Càng đi sâu vào kinh, chúng ta càng thương kính quý mến đấng Đại đạo sư, Ngài là bậc Thế Tôn, là đấng cha lành; Ngài như luôn cầm tay mình, từng bước dìu đứa con thân ra khỏi trần nhơ:
“Không vì thiên hạ ngọt bùi
Cũng không vị nể dù người thân sơ
Người trí không hành động nhơ
Không cầu con cái, hay nhờ quyền uy”
Cầu giàu có, cầu vương phi
Đem bất chánh, đổi tiện nghi cho mình
Được vậy mới gọi hiền minh
Đạo đức trí tuệ viên thành đạo tâm.(PC. 84)
Hành giả tinh tấn hành thiền
Giác chi (4) bảy đóa sen thiêng thơm lành
Phiền não, nhiễm ái, vô sanh
Niết bàn diệu thể trú thành phạm âm. (PC. 89)
Chẳng những luôn kiên trì con đường phạm hạnh mà còn đối chiếu cân phân thực, ảo của phạm hạnh:
Thắng chính mình, mới thượng nhân
Hơn thắng kẻ khác ngàn lần là hơn
Tự mình tỏ rõ thiện chơn
Chế ngự tham dục thiên sơn cao vời!(PC. 104)
Trăm tuổi trí tuệ không sanh
Không tu thiền, thiếu phúc lành thiện duyên
Chẳng bằng một ngày tu thiền
Trí tuệ tỏ rạng đức hiền sáng trong.(PC. 111)
Trăm năm không ngộ đạo vàng
Vô vi tịch tịnh mơ màng có không
Chẳng bằng một ngày sáng lòng
Vô vi tịch tịnh sắc không thư nhàn.(PC. 114)
Trăm năm sống giữa trần gian
Không thấy pháp tối thượng quang nhiệm mầu
Chẳng bằng một ngày ngộ sâu
Thấy pháp tối thượng vô cầu vô tâm. (PC. 115)
Đặc biệt nhất là sau khi khám phá, nhận diện được “bản lai diện mục” của chính mình như đức Phật đã từng khai thị:
Vòng luân hồi mãi xuống lên
Tìm mãi không gặp tuổi tên chủ nhà
Khổ thay kiếp sống phù hoa
Sanh già bệnh chết... bóng tà huy bay
Kẻ làm nhà, ngươi là ai
Gặp rồi sao lại khứ lai vô tình
Ngươi về hội nhập tâm linh
Không làm nhà nữa, vô hình vô tâm
Rui mè, kèo cột bặt tăm
Niết bàn vô thượng thậm thâm trúrồi
Dục vọng mê nhiễm buông trôi
Lậu hoặc dứt sạch, đứng ngồi tịnh an (5) (PC. 153 & 154)
Dù Phật tử tại gia hay Tăng Ni xuất gia, chúng ta đều có niềm tin lớn là có phúc duyên gặp được giáo pháp đức Phật, thọ hưởng ánh sáng hào quang đức Phật soi chiếu, tỏ rõ “bản lai diện mục” tự thân rồi nhất định không bỏ phí thời gian nữa, nhất là giai đoạn tuổi thanh xuân... mà luôn tự tỉnh giác trước dòng thời gian để không phải ăn năn, hối tiếc khi thời gian qua mau và vô thường chợt đến:
Thanh niên cường tráng hiên ngang
Không kiếm tài sản kết tràng hoa thiêng
Tu hành lúc trẻ không siêng
Khi già chẳng khác cò hiền bên sông
Sớm tối lặn lội đục trong
Chết mòn khô héo kiếm không được mồi.(PC. 155)
Thanh niên cường tráng trẻ vui
Không kiếm tài sản, tụ đời tương lai
Trẻ không tích lũy đức tài
Đến già nằm xuống trong ngoài trống không
Thân người đau yếu, khòm cong
Như cây cung gãy, như vòng hoa khô!(PC. 156)
3.3. Hãy sống an lạc với “mùa xuân tâm linh” của tự lòng
Giá trị thực trong cuộc sống chính là giá trị sống, ông bà ta từng nói: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng” rất có ý nghĩa ở đời. Khi sống mình phải biết dựng lập cuộc sống như thế nào để mọi người chung quanh thương mến và khi mình chết thì mọi người luyến tiếc, trân trọng, tôn kính. Đức Phật dạy người tu phải biết tự phòng hộ các căn, khi sống không để thân, khẩu, ý làm việc xấu, quấy, ác thì khi chết đi khỏi phải mang quả báo không tốt và còn lưu lại tiếng xấu trong đời.
Trong phẩm Bà La Môn, các câu kinh 412, 413, 414, 415 đức Phật có dạy:
“Thế gian này, cảnh ảo huyền
Thiện pháp, ác pháp, ưu phiền... lắng trong
Ngày ngày thuần tánh, thanh lòng
Bà-la-môn xứng danh dòng Phạm thiên”.
“Dục vọng ngưng nẻo trần duyên
Như trăng mát dịu, lâm tuyền long lanh
Sống đời trí sáng tinh anh
Bà-l- môn gọi thiện sanh muôn đời”.
“Gồ ghề lầy lội (6) chơi vơi
Vượt khỏi biển khổ luân hồi mê si
Thiền định, lắng dục, dứt nghi
Không chấp, không đắm tự ty quả mầu
Niết bàn tịch tịnh thẳm sâu
Bà-la-môn thực thượng cầu nhơn thiên”.
“Hiện đời lìa bỏ dục triền
Xuất gia tích hạnh thánh hiền Tăng nhân
Không phát sinh lại nghiệp trần
Bà-la-môn quả, xuất thần Sa-môn”.
Trong phẩm Tỳ-kheo, đức Phật đã dẫn dắt thầy Tỳ-kheo nói riêng, người tu nói chung, biết sống kiểm soát, nhiếp phục các căn của chính mình; tức là người con Phật muốn tu, thích tu thì phải biết sống cho mình một cách trọn vẹn:
“Mắt tai mũi lưỡi... các căn
Ai chế phục được, thức thần thong dong
Thân khẩu tâm ýsạch trong
Lành thay! Giải thoát khỏi vòng khổ đau!”(PC. 360 & 361)
“Tỳ-kheo tri túc, không lơi
Thường nhật tỉnh giác, thời thời siêng năng
Đến đi gìn giữ các căn
Chư thiên khen ngợi, người hằng kính yêu”.(PC. 366)
“Tỳ-kheo múc nước thuyền này
Nước hết thuyền nhẹ, công dày quảcao
Tham dục, sân nhuế... thoát mau
Niết-bàn quả vị, đạo mầu tự thân”. (PC. 369)
“Biết tự cảnh sách lòng trong
Quay về phản tỉnh, hộ phòng tánh tu
Chánh niệm vắng lặng điều nhu
Tỳ-kheo an lạc, vô ưu quả lành”.(PC. 379)
Tỳ-kheo tâm tánh nở hoa
Thành tín giáo pháp Phật-đà hành tri
Cảnh giới an lạc từ bi
Vô thường chứng ngộ, lưu ly nhiệm mầu.(PC. 381)
Tỳ-kheo tuổi nhỏ tín sâu
Siêng tu giáo pháp thượng cầu Phật gia
Ánh sáng soi chiếu Tăng-già
Như trăng thanh thoát đẹp nhà từ bi.(PC. 382)
Từ phẩm Tỳ-kheo đến phẩm A-la-hán, rõ ràng giáo pháp đức Phật không ru ngủ, mê hoặc con người mà là chỉ rõ, đánh thức sự trì trệ, u mê nơi con người. Rất tình cờ chúng ta có thể cũng gặp gỡ nơi Thiền sư Viên Học (1073 – 1136) đời Lý, sự tỉnh thức:
“Nghe chuông sớm tối tĩnh lòng
Thần lười dứt sạch, thần thông hiển bày”.
Và qua các câu kinh từ 93 đến 99 chúng ta thấy rõ đức Phật giáo huấn các thầy Tỳ-kheo nói riêng, người tu nói chúng hãy tự nâng cao, sàng lọc tâm thức của chính mình lên để từng bước đi vào Tứ thánh quả, trở thành vị A-la-hán trong chánh pháp.
A-la-hán sạch nhiễm ô
Tứ sự (7) nương tạm, tội đồ lìa xa
Giải thoát, vô tướng, không hoa
Như chim tự tại, trú tòa tịnh không.
A-la-hán đóa sen hồng
Tuấn mã điều phục, nhiếp lòng dặm xa
Ngã mạn phiền não an hòa
Trời người kính mộ đẹp nhà từ bi.
A-la-hán hết sân si
Tâm như cõi đất, lưu ly cửa thiền
Ao sâu bùn lắng sạch phiền
Nghiệp trần nhẹ phủi, hết duyên luân hồi.
A-la-hán ý thường tươi
Lời nói, hành động thời thời lặng yên
Chánh trí giải thoát tịch thiền
Thân tâm an tịnh, đức hiền tỏa hương.
A-la-hán tự sáng gương
Tự lòng kiên định, tánh thường hiển khai
Nhân quả báo ứng trong ngoài
Vô Thượng Sĩ ngự, Như Lai tịch nhàn.
Dù núi rừng, dù xóm làng
Đất bằng, gò trũng, đồng hoang, thị thành
A-la-hán trú an lành
Cảnh giới hạnh phúc cao thanh đạo hiền.
Người đời chẳng thích lâm tuyền
A-la-hán lại vui miền tịch liêu
Dục lạc người đời mến yêu
A-la-hán đẹp bên triều non xanh.
Sống trong đời, ai nhận ra và nhiếp phục được mọi phiền não, lắng sạch mọi ưu phiền của các căn khi đối diện với sáu trần, tịnh hoá được ba nghiệp thân, khẩu, ý... người đó sẽ trở thành vị Tỳ-kheo, vị A-la-hán thực sự thân chứng trong chánh pháp, an trú vĩnh viễn trong mùa xuân tâm linh của chính mình.
Nhân mùa xuân Tân Mão - 2011 năm “Con Mèo” đã về với cuộc sống con người trong thời khắc thiêng liêng, năm đầu của thập niên thứ 2 của thiên niên kỷ mới (thế kỷ XXI), thành tâm kính chúc chư Tôn đức, pháp hữu huynh đệ và Phật tử gần xa một năm mới an lạc, kiết tường như ý… luôn được nhiều thắng duyên trong chánh pháp tương hội mùa xuân tâm linh nơi tự thân.
Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Phương Thảo am, xuân Tân Mão – 2011.
* Ban Biên tập: Nhân dịp xuân mới, Ban Biên tập trang www.daophatkhatsi.vn xin chia sẻ cùng đọc giả tác phẩm này như là một món quà xuân trong những ngày đón Tết.
[1] Tà kiến là cái thấy tà vạy, mê tín dị đoan. Luôn sống với trạng thái tỉnh giác, biết tỏ rõ trước phải quấy, tốt xấu... đó chính là đạo, là hạnh phúc của con người:
[2] Từ sáu căn phát ra.
[3] Chỉ tham, sân, si…
[4] Thất giác chi hay còn gọi là “Thất bồ đề phần” gồm: Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định và xả.
[5] Đây là lời đức Phật Thích Ca khi thành đạo, tâm sanh hoan hỷ mà nói ra. Sau này, nhân vì ngài A nan hỏi mà Phật nói lại lời đó. Kẻ làm nhà chỉ cho thân thể; rui mè chỉ cho các thứ dục lạc ở thế gian, còn kèo cột chỉ cho vô minh.
[6] Chỉ các phiền não tham dục.
[7] Chỉ cho 4 việc: ăn, mặc, ở, thuốc men.
-----ooOoo-----
Nguồn: daophatkhatsi.vn
BÀI LIÊN QUAN
Chúc Xuân (9036 xem)
Gia phong chư Phật và mùa Xuân ( Hòa thượng Giác Toàn , 6552 xem)
Những câu Lộc Xuân trong Phật giáo (78696 xem)
Xuân gõ cửa ( NT. Xuân Liên , 5452 xem)
Xuân Di Lặc sau mùa dịch bệnh ( Ban Thông tin truyền Thông , 8360 xem)
Hoa Bồ đề ( Ni trưởng Huỳnh Liên , 14628 xem)
Thơ Xuân xướng họa ( Tâm Minh Ngô Tằng Giao , 5924 xem)
Rằm tháng Giêng, ăn chay & lễ Phật ( Trương Thanh Liêm , 5496 xem)
Say giữa trời xuân ( Cao Huy Hóa , 8084 xem)
Mùa xuân Di-lặc ( Tỳ kheo Minh Viên , 10765 xem)
Ý KIẾN BẠN ĐỌC
Nguyện xin hiến trọn đời mình
Cho nguồn Đạo pháp cho tình Quê hương
Thông báo: Hội thi giáo lý nhân ngày Lễ Tưởng niệm lần thứ 38 Ni trưởng Huỳnh Liên - Đệ Nhất Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam
Nhân ngày lễ Tưởng niệm lần thứ 38 Ni trưởng Huỳnh Liên - Đệ Nhất Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam, Tổ đình Tịnh xá Ngọc Phương sẽ tổ chức Hội thi giáo lý về cuộc đời và đạo nghiệp của Ni trưởng Đệ Nhất.
Thông báo Khóa Bồi dưỡng đạo hạnh lần thứ 8 do Ni giới Hệ phái Khất sĩ tổ chức
Tiếp theo thời khóa tu học trong 3 tháng An cư là chương trình 10 ngày bồi dưỡng đạo hạnh lần thứ 8 cho chư Ni NGHPKS, bắt đầu từ chiều mùng 1 tháng 7 đến ngày 11 tháng 7 năm Giáp Thìn (nhằm ngày 4/8/2024 – 14/8/2024) tại Tổ đình Tịnh xá Ngọc Phương (Số 498/1 đường Lê Quang Định, Phường 1, quận Gò Vấp, Tp. HCM)
Thông báo khóa Bồi dưỡng đạo hạnh lần 9 do Hệ phái Khất sĩ tổ chức
Nhằm nâng cao đời sống Phạm hạnh và thắp sáng lý tưởng giải thoát, giác ngộ và phụng sự Đạo pháp cho các Tăng Ni trẻ vừa bước chân vào đạo, Hệ phái Khất sĩ mỗi năm tổ chức một khóa BỒI DƯỠNG ĐẠO HẠNH tại Pháp viện Minh Đăng Quang (505 Võ Nguyên Giáp, phường An Phú, TP. Thủ Đức, TP. HCM) dành cho các Sa-di, Sa-di-ni và Tập sự.
Thư mời viết bài Tập san Đuốc Sen - số 35 chủ đề Lễ tự tứ Tăng và Vu lan Báo hiếu
Thư mời viết bài Tập san Đuốc Sen - số 35 chủ đề Lễ tự tứ Tăng và Vu lan Báo hiếu
Thông báo Lớp Giáo lý trực tuyến
Thời gian tụng kinh, thuyết giảng trực tuyến như sau: Tụng kinh: Hàng ngày từ 6g30 – 7g15 tối là thời khóa tụng kinh Dược Sư, các ngày sám hối trì tụng Hồng Danh Bửu Sám Thuyết giảng: 7g30 – 8g30 tối hàng ngày
VIDEO
Trực tiếp: Phiên Bế mạc Hội thảo Khoa học Ni trưởng Huỳnh Liên tại Pháp viện Minh Đăng Quang - Ban Truyền hình Trực tuyến PSO
Pháp âm MP3
- 0 - Lời Mở Đầu
- 01 - Võ Trụ Quan
- 02 - Ngũ Uẩn
- 03 - Lục Căn
- 04 - Thập Nhị Nhơn Duyên
BÀI XEM NHIỀU
Kinh sách PDF của HT Nhất Hạnh
Kinh sách PDF của Hòa thượng Thích Thanh Từ
Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm “Bất ưng trụ sắc sanh tâm”
Ảnh hưởng của Kinh Kim Cang đối với Thiền tông
Thiền tông Trung Quốc qua các giai đoạn phát triển quan trọng
LỊCH VIỆT NAM
THỐNG KÊ