Trang chủ > Phật Học > Phật Pháp

Lời Phật dạy - Quyển I

Tác giả: Tuệ Liên.  
Xem: 5653 . Đăng: 15/04/2021In ấn

LỜI PHẬT DẠY – QUYỂN 1

 

Dịch giả: Tuệ Liên

 

 

Lời tựa

 

Tam tạng Kinh điển của Phật giáo có số lượng rộng lớn, nội dung thâm thuý, sâu sắc, chẳng những ghi lại và giới thiệu một cách có hệ thống toàn bộ tri thức liên quan đến Phật giáo, mà lại còn chuyên chở rất nhiều câu chuyện sinh động, linh hoạt, ngụ ý sâu xa, có thể làm cho chúng sanh mở khai trí tuệ, chỉ đạo cho chúng sanh những phương pháp làm người, xử thế sao cho hợp với lẽ đạo tình đời.

Để xử lý tốt đẹp mối quan hệ giữa người với người, Phật giáo đưa ra những phương pháp và nguyên tắc đậm màu nhân văn, vô cùng có giá trị và giàu tính trí huệ. Những phương pháp và nguyên tắc này là tài sản tinh thần quý báu chỉ dạy chúng ta phép làm người, xử thế giữa cuộc đời

Nhân quả, theo Phật giáo, là quy luật của nhân sinh vũ trụ, là căn bản của nền giáo lý Phật pháp, trong đó nhân quả về thiện nghiệp, ác nghiệp là nghiệp do con người tự mình tạo ra. Sinh mệnh hữu tình tuân theo quy luật duyên khởi, vô thường; làm lành thì được quả báo lành; giữ lòng trong sáng, sống đạm bạc thanh cao; buông bỏ tham, sân, si; không tuyệt vọng trước khổ đau, cũng không chìm đắm trong vui sướng; không tham dục, không chấp ngã, do đó giá trị cuộc sống được nâng lên tầm cao mới, cảnh giới cuộc đời tự nhiên rộng mở đón chào ta.

Trong kinh điển, Đức Phật giống như người Thầy có trí tuệ viên mãn, pháp lực vô biên, biện tài vô ngại, nhân từ, hoà ái, đem ân đức phổ cập muôn loài. Ngài dùng phương pháp bình dị dễ hiểu, dùng những ví dụ hình tượng sống động để thuyết pháp độ sanh, để tuyên dương Phật lý khả thuyết (có thể nói) và bất khả thuyết (không thể nói) cho muôn loài, khiến người có thể từ trong đó cảm ngộ được triết lý nhân quả thiện ác, cảm ngộ được nguyên lý lìa khổ được vui, từ đó phát nguyện Bồ đề vô thượng, và tu tập cho đến ngày giác ngộ viên mãn.

Các câu chuyện trong kinh Phật với tình tiết sinh động, ngôn ngữ trữ tình, hoặc dùng con người, loài vật, sự việc trong cuộc sống hiện thực làm cơ sở, đầy ắp những đạo lý dạy chúng sinh làm người, xử thế; hoặc dùng những câu chuyện ngụ ngôn về các loài động vật, truyền thuyết dân gian để diễn đạt những ý tưởng hoà bình, từ ái, bình đẳng, chí công vô tư, hiền lành, thành tín, không vụ lợi, buông bỏ lòng tham dục… đồng thời cũng để lên án những hành động tàn bạo vô nhân. Như Nho gia khuyên người lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm quy tắc đạo đức và quy phạm việc làm, xử thế. Trong đó nhân là lòng từ bi, nghĩa là cần phải có đức hạnh; lễ là phải giữ gìn quy củ; trí tức là phải dùng trí huệ chỉ đạo cuộc sống; tín tức là phải có chữ tín, lời nói việc làm phải nhất trí. Trong Phật pháp cũng có những lời dạy tương đồng như vậy, yêu cầu người không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ ngữ, không tham, không sân, không si, tức là dùng ngũ giới thập thiện làm quy tắc tiêu chuẩn chiếu soi tâm niệm vọng động của mình, đồng thời đây cũng chính là những nguyên tắc căn bản làm người, xử thế trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Quyển “Lời Phật dạy đạo lý làm người” tuyển chọn các câu chuyện từ trong Tam tạng Kinh điển Phật giáo. Sách lấy kinh điển nguyên thuỷ làm cơ sở, kết hợp khoa học và triết học hiện đại, thêm vào sự biên dịch và lời bình, trình bày và giải thích sâu sắc nguyên tắc mối giao tế giữa người và người theo Phật giáo “Đạo xử thế tức là đạo làm người”, khiến người cảm thấy như tai nghe mắt thấy những điều mới lạ.

Những câu chuyện mà sách này chọn lựa đều giàu tính trí huệ và triết lý, chứa đầy tính chất khôi hài, dí dỏm và lý thú, giúp chúng ta lãnh hội được ý nghĩa sâu sắc của Phật pháp ngay trong cuộc sống hồng trần huyên náo, nhân sinh khổ não ưu phiền này. Càng hấp thu được nhiều trí huệ của Đức Phật, thì cuộc sống của chúng ta càng tự tại, thanh tịnh, sáng suốt, độ lượng khoan dung.

 

Chương một

Xả thân vì chúng

 

Xả thân cứu chúng

 

Tiền thân Bồ tát làm vua loài khỉ, thường theo năm trăm con khỉ thủ hạ vui chơi. Bấy giờ trời đang khô hạn, trái cây không nhiều. Cách núi không xa, chỉ qua một con sông nhỏ là một quốc gia nọ. Vua khỉ đem bầy khỉ vào vườn hái trái ăn, người coi vườn phát hiện bèn đem việc này tâu với nhà vua.

Nhà vua ra lệnh:

- Giữ chặt khu vườn, đừng để cho chúng nó chạy thoát.

Vua khỉ biết mình bị bao vây, buồn bã nói :

- Ta là đầu đàn của các ngươi, là hoạ hay là phúc trách nhiệm đều ở nơi ta. Vốn muốn đem các ngươi lại đây hái trái để bảo toàn tánh mạng, nào ngờ hại cả đàn sắp mất mạng.

Suy nghĩ hồi lâu vua khỉ bèn ra lệnh cho đàn:

- Các ngươi đi khắp nơi tìm dây đem về cho ta.

Khi đàn khỉ đem dây về đến, vua khỉ bèn ra lệnh nối các dây lại, lấy một đầu dây cột vào một cành cây lớn. Vua khỉ trước tự buộc dây vào eo rồi leo lên cây chuyền qua cành cây bên kia bờ. Vì dây ngắn, vua khỉ phải duỗi mình tay nắm lấy cành cây, rồi ra lệnh cho đàn khỉ:

- Mau nắm lấy dây qua sông.

Khi đàn đã qua xong rồi, hai tay vua khỉ đứt đoạn, rơi ngay bên bờ sông, chết đi sống lại hồi lâu mới tỉnh lại.

Quốc vương sáng sớm đi xem, lần theo dấu tích bắt được vua khỉ. Không ngờ khỉ có thể nói tiếng người, bèn cúi đầu lạy vua thưa rằng:

- Chúng tôi là loài dã thú tham sống, ở bên kia bờ sông, cũng tức là bên cạnh đất nước của Ngài. Vì trời hạn hán cây trái thiếu kém, đói không chịu nỗi, nên mới xâm phạm vườn vua. Đây là tội lỗi của tôi, xin Ngài tha cho đàn khỉ. Thân già lão hủ của tôi, nếu không chê xin dâng làm bữa ăn cho vua.

Vua ngửa mặt than:

- Ngươi là đầu đàn của bầy dã thú, mà còn có thể xả bỏ thân mạng của mình cứu bầy, có lòng nhân rộng lớn của bậc hiền xưa. Ta làm vua người chẳng lẽ không làm được như ngươi sao?

Nhà vua vô cùng cảm động, sai người cởi trói, đỡ vua khỉ đứng trên mặt đất, đồng thời ra lệnh cả nước để mặc tình khỉ kiếm ăn, nếu như ai phạm đến khỉ, trị tội đồng với giặc. Trở về, vua kể với hoàng hậu cử chỉ nhân nghĩa của vua khỉ:

- Lòng nhân của khỉ, các bậc hiền xưa chưa chắc vượt hơn, so sánh với lòng nhân của ta, lòng nhân của khỉ kia nặng hơn núi Côn Lôn.

Hoàng hậu nói:

- Hay thay! Loài thú thiện lành ấy thật là kỳ diệu. Vua nên cho phép chúng mặc tình kiếm ăn, đừng để người hại chúng nó.

Vua nói:

- Ta đã ra lệnh rồi.

(Bổn sanh vua khỉ – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Vua khỉ trong lúc nguy hiểm đã xả thân để cứu chúng, khiến cho bầy khỉ thoát khỏi nguy hiểm còn bản thân mình bị vây hãm trong vườn của nhà vua. Nhưng cử chỉ nhân đức của nó đã làm cho nhà vua cảm động. Nhà vua không những ra lệnh tha cho khỉ chúa, mà còn hạ lệnh cho người trong nước phải bảo hộ loài khỉ, khiến cho chúng do hoạ mà được phước. Làm người cũng thế, chúng ta vì cứu người mà gặp phải nguy hiểm, làm hại đến thân thể, nhưng nếu có thể làm được như vậy thì điều thiện đó không gì lớn hơn nữa.

 

Lòng nhân vô địch

 

Ngày xưa, trong một vùng rừng núi hoang vu, có một bầy nai. Nai chúa sức mạnh hơn người, lại có tấm lòng nhân từ, yêu thương bộ hạ của mình. Các nai trong rừng đều cung kính, ái mộ nó. Có ngày đàn nai đi tìm thức ăn, không hay không biết đến gần vườn ngự uyển của nhà vua. Có người phát hiện chúng nó bèn đi tâu với quốc vương. Quốc vương phái rất nhiều binh lính bao vây bắt chúng. Tiếng binh sĩ ầm ỹ làm kinh động cả bầy nai, khi chúng ý thức được sự nguy hiểm thì đã quá muộn màng. Nai chúa buồn bã và hối hận vô cùng, lén rơi nước mắt, thầm nghĩ: “Vì ta không kịp thời phòng bị, khiến cho đàn nai bị nguy hiểm lọt vào vòng vây, dù có bỏ thân mạng này, ta cũng phải cứu bầy nai”. Nai chúa nghĩ rồi bèn đến mép lưới, quỳ hai chân trước kêu gọi bầy nai rằng:

- Nhanh! Hãy leo lên mình ta nhảy ra khỏi vòng vây, các ngươi sẽ được toàn mạng.

Đàn nai lần lượt từng con nhảy lên mình nai chúa vượt ra ngoài vòng vây, thoát được hiểm nguy, còn nai chúa thân bị trọng thương, máu ra như suối, cuối cùng không chịu đựng được nữa, ngã xuống chết ngất trên mặt đất, đau đớn không thôi. Những con nai đã thoát ra ngoài nhìn thấy nai chúa bị trọng thương, bèn bồi hồi tụ tập bên ngoài vòng vây, bi thương kêu khóc, không chịu ra đi, dường như không biết mình đang ở trong vòng nguy hiểm.

Nhà vua nhìn thấy nai chúa bị trọng thương, mà những con nai khác thì đứng ở ngoài hàng rào, bi thương nhìn nó không chịu đi, bèn hỏi:

- Tại sao như vậy ?

Nai chúa trả lời:

- Muôn tâu bệ hạ, đây là lỗi của tôi đã không quản lý tốt đàn nai. Vì tìm đồng cỏ non ngon ngọt mà xâm phạm đến vườn ngự uyển của bệ hạ, tôi thật có tội lớn. Nay thân tôi đã nội thương, nhưng ngũ tạng vẫn còn nguyên vẹn, tôi tình nguyện dâng cho Ngài làm bữa ăn, nhưng cúi xin Ngài đừng sát hại những con nai khác, chúng không có lỗi lầm gì.

Nhà vua nghe rồi vô cùng cảm động nói:

- Ngươi tuy là súc sanh, nhưng lại có tấm lòng từ bi cao thượng, nguyện hy sinh tính mạng của mình để cứu đàn! Còn ta là vua của loài người, lại muốn sát hại sinh linh, thật là tội nghiệp sâu dày.

Vì thế nhà vua bèn ban bố một mệnh lệnh;

- Từ đây trở về sau, cấm toàn dân trong nước ăn thịt nai.

Và ra lệnh huỷ tất cả công cụ bắt nai.

Bầy nai nhìn thấy nai chúa vết thương nghiêm trọng, đều bao vây chung quanh, dùng lưỡi liếm nhẹ lên vết thương của nai chúa, rồi đi kiếm thuốc từ nơi rừng sâu, núi đá đem về đắp lên vết thương của nai chúa. Quốc vương nhìn thấy cảnh cảm động như thế, than rằng: “Là người đứng đầu một nước, nhà vua phải từ ái, quan tâm lo lắng đến đời sống của dân chúng, dân chúng mới ủng hộ, yêu kính quốc vương. Nhân nghĩa mới là đạo làm vua”.

Từ đó quốc vương mở rộng lòng từ bi,không còn sát sinh và thường để ý quan tâm lo lắng đến sự thống khổ của người dân, trở thành người được dân chúng tôn kính, mến vì.

 

(Bổn sanh vua nai - Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Lòng nhân nghĩa của vua nai đã thành tựu lòng nhân nghĩa của nhà vua. Là nai chúa đứng đầu bầy nai, có một tấm lòng quảng đại, hy sinh bản thân mình cho đàn nai, đó là điều mà nhà vua là người đứng đầu một nước cần phải học tập. Nếu chúng ta đối với mọi người đều được như vậy, chẳng luận chúng ta có phải là vua hay không, sẽ được mọi người tôn trọng, xã hội sẽ càng thêm hoà hợp an vui.

 

Cắt da cứu chúng

 

Có lần Đức Thế Tôn bị bệnh phong, các đệ tử đi mời ông Kỳ Vực Y Vương vào điều trị, ông hết lòng tinh chế diệu dược, dùng ba mươi hai vị thuốc, mỗi ngày dùng ba mươi hai lạng dâng lên Đức Phật.

Thuở đó ông Đề Bà Đạt Đa thường đem lòng ganh ghét, đố kỵ Đức Phật, tự cao tự đại, tự cho mình cao minh, muốn danh tiếng của mình ngang hàng với Phật, nghe biết Phật uống 32 thứ thuốc cũng gọi ông Kỳ Vực luyện 32 thứ thuốc, ngày 32 lạng cho uống.

Nào ngờ khi thuốc vào trong người, Đề Bà Đạt Đa chẳng những cảm thấy thân thể không thoải mái mà càng cảm thấy suy nhược, khổ não khôn xiết, suốt ngày kêu rên ầm ỹ

Đức Thế Tôn thương ông đau đớn, nên Ngài dùng tay xoa đầu ông, nhờ công đức của Ngài khiến cho Đề Bà Đạt Đa bệnh hoạn tiêu trừ, thân tâm an lạc! Nào ngờ ông không cảm ân Đức Phật mà còn nhìn vào cánh tay của Phật, nói rằng:

- Thế Tôn thật không có tài năng gì, thuyết pháp giảng kinh đã không còn ích dụng với người nữa, nên bây giờ học nghề thuốc để cầu danh lợi.

Đức Phật sớm biết tâm niệm của Đề Bà Đạt Đa, than rằng:

- Đề Bà Đạt Đa, mang lòng không tốt, ác độc vô cùng, chẳng những ngày nay mà đời quá khứ đã dùng mưu này kế khác hại ta.

Vì thế Đức Phật bèn kể câu chuyện tiền kiếp Đề Bà Đạt Đa tâm ác hại Phật

Đời quá khứ xa xưa, ở thành Diêm Phù Đề, có một nước lớn tên là Ba La Nại, ông vua nước ấy tên là Phạm Ma Đạt tính tình hung bạo tàn nhẫn, không có từ tâm, lại ham mê sắc dục làm tổn thương cho muôn loài.

Một hôm ông nằm mộng thấy một con thú kỳ lạ, toàn thân đều là lông vàng, trên đầu lông toả ra ánh sáng rực rỡ. Nhà vua tỉnh dậy không thấy thú này, tâm như lửa đốt, lập tức chiêu tập thợ săn, kể cho đám thợ săn này nghe giấc mộng của mình, ra lệnh cho họ phải bắt cho được con thú này, rồi lột da thú kia hiến dâng cho nhà vua sẽ được trọng thưởng. Nếu bắt không được thú kia thì sẽ bị tru diệt chín đời dòng họ những người thợ săn.

Phạm Ma Đạt hung tàn, bạo ngược như thế, đám thợ săn lo lắng buồn bã vô cùng, mọi người hội họp lại cùng nhau bàn thảo phương cách. Cuối cùng họ đồng ý chiêu mộ một người thợ săn, khiến người này đi tìm thú nọ. Để phòng người này bắt không được thú mà trốn chạy không trở về, đám thợ săn bèn cầm cố gia sản và vợ con của người này. Người thợ săn được chiêu mộ nghĩ thầm: “Dù ta có chết cũng phải bắt cho được con thú lạ thường chưa từng thấy này”.

Người thợ săn trèo non lội suối, bất chấp tính mạng nguy hiểm vào trong rừng sâu núi vắng kiếm tìm. Ngày ngày trôi qua, lương khô mang theo mình đã ăn gần hết, sức lực đã mỏi mòn kiệt quệ mà vẫn không tìm được một vết tích gì. Lúc này trời đang mùa hạ, nóng nực oi bức, người thợ săn vừa đói vừa khát, thoi thóp gần chết. Đương lúc cùng cực đau khổ, người thợ săn nhìn trời than dài, buồn khóc nói:

- Ai có lòng từ bi cứu mạng tôi với!

Vừa lúc ấy trong rừng bỗng xuất hiện một con thú. Con thú này tên là Cứ Đà. Chỉ nhìn thấy toàn thân nó lông vàng, dưới ánh mặt trời rực rỡ, chính là con thú mà vua Ba La Nại nằm mộng thấy. Cứ Đà nghe tiếng người thợ săn bi thảm kêu cứu, sanh lòng thương xót bèn vượt qua dòng suối lạnh đến bên người thợ săn, thấy anh ta tiều tuỵ, khát nước, bèn dùng sức kéo anh ta đến bên dòng suối, cẩn thận rửa đi những bụi bặm trên mình, rót nước suối ngọt ngon mát lạnh vào trong miệng khát khô của anh ta, lại đi tìm các thứ trái rừng ngon ngọt về cho ăn.

Người thợ săn dần dần tỉnh dậy, khôi phục lại tri giác. Anh nhìn thấy Cứ Đà ngay trước mắt, đúng là con thú mà anh đang khổ công kiếm tìm bắt về đem nộp cho nhà vua, vừa mừng, vừa ngạc nhiên, nhưng sau đó lại nghĩ: “Khi ta nguy hiểm gần chết, nó đã cứu mạng cho ta, ta cảm ơn còn không hết, làm sao có thể hại nó được ? Nhưng mà …”

Người thợ săn nghĩ đến đây không nén nỗi sự lo lắng ưu tư, Cứ Đà nhìn người thợ săn mặt mày khổ sở rầu rĩ bèn hỏi người thợ săn tại sao lại buồn như thế. Người thợ săn bèn đem mọi việc kể cho Cứ Đà nghe. Cứ Đà nghe xong, biết con thú mà nhà vua hung tàn nằm mộng thấy tức là mình, bèn an ủi người thợ săn rằng :

- Việc này anh không phải lo rầu, được da của tôi có khó khăn gì đâu.

Cứ Đà đưa ngực cho người thợ săn nói:

- Tôi từng xả thân cứu người vô số nhưng chưa bao giờ cầu phước báu, nay có thể dùng da của tôi để có thể cứu mạng của các anh là hạnh phúc lớn nhất của tôi. Nếu muốn da của tôi, xin hãy lột đi. Tôi dù có lập tức chết đi cũng không hối hận, tôi nguyện đem sinh mệnh này bố thí cho chúng sinh.

Người thợ săn thấy Cứ Đà an nhiên tự tại như thế, lại có lòng quyết tâm xả thân cứu chúng, bèn ngậm ngùi bất đắc dĩ lột lấy bộ da màu vàng rực rỡ của Cứ Đà. Cứ Đà bị lột da xong, máu thịt lộ ra đỏ như gấc chín. Có tám vạn loài ruồi kiến bâu đến ăn thịt hút máu của Cứ Đà. Cứ Đà đau đớn như ngàn dao cứa vào, muốn chạy về hang của mình, nhưng sợ làm tổn thương các loài ruồi bọ, trùng kiến, vì thế nghiến chặt răng để cho loài trùng kiến hút máu ăn thịt, nằm yên không nhúc nhích mặc cho sự đau nhức không kể xiết.

Cứ Đà máu đã cạn, thịt đã bị ăn hết, từ từ chết đi, người thợ săn vác tấm da thú trở về dâng vua Ba La Nại. Nhà vua nhìn thấy tấm da sắc vàng chói lọi giống như trong mộng, vô cùng mừng rỡ. Từ đó vua bèn dùng tấm da thú này làm tấm đệm, nằm ngồi ở trên, cảm thấy thân tâm an vui khoái lạc. Trong niềm hân hoan, nhà vua bèn tha cho đám người thợ săn, gia đình vợ con của người thợ săn cũng được may mắn thoát khỏi nguy nan.

Đức Phật nói:

- Cứ Đà kia tức là ta hôm nay, mà vua Phạm Ma Đạt hung tàn, bạo ngược tức là Đề Bà Đạt.

 

(Phật đà thí thân phẩm 15 – kinh Hiền Ngu)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Để thoả mãn tấm lòng ái dục của bạo quân, dị thú đã nhẫn chịu nỗi đau đớn kịch liệt, hy sinh tánh mạng, lột da của mình để cứu chúng thợ săn. Sự vô tư của dị thú cùng với tấm lòng độ lượng bao la của Đức Phật làm cho người ta kính trọng bao nhiêu, thì hành vi ác độc của những kẻ xấu ác thường khiến cho người khinh ghét bấy nhiêu. Khuyên người đời đừng làm theo những cách tiểu nhân đê tiện như vậy, tâm giữ những niệm thiện lành mới là đạo làm người.những, 

 

Hoá cá cứu đói

 

Ngày xửa ngày xưa, tại Châu Nam Diêm Phù Đề, có một nhà vua nước lớn tên là Đầu La Kiện Ninh. Đầu La Kiện Ninh là một nhà vua rất từ bi, nhân hậu, đối với bá quan và người dân trong nước đều có lòng quan tâm lo lắng, ái hộ, mọi người đều kính yêu và ủng hộ Ngài.

Một ngày nọ, trên trời xuất hiện một ngôi sao đỏ như lửa. Ngôi sao này to hơn các ngôi sao khác nhiều, mà còn ánh sáng rực rỡ muôn phần.

Quốc vương nhìn thấy như vậy sinh lòng bất ổn không an. Lúc đó có một người giỏi về thiên văn bói toán đến cầu kiến nói với nhà vua rằng:

- Nước nào có hoả tinh xuất hiện thì nước đó có hạn hán mười hai năm. Nước nhà sắp gặp biến cố nguy hiểm như vậy, xin đại vương nghĩ cách đối phó.

Vua Đầu La Kiện Ninh nghe thầy tướng nói như thế, vô cùng lo buồn, lòng nặng nề nghĩ thầm: “Nếu thật sự phát sinh tai hoạ lớn như thế, nông dân không thâu hoạch được lúa gạo, nhân dân lúc đó lấy gì mà ăn? Nếu dân chúng không giữ được mạng sống thì quốc gia này sẽ lâm vào sự nguy hiểm”.

Không bao lâu, tai hoạ giáng xuống đất nước. Do vì không có lúa gạo, người dân chết đói càng ngày càng nhiều. Vua Đầu La Kiện Ninh ruột nóng như đốt, lo lắng không thôi, ngày quên ăn, đêm quên ngủ! Suốt ngày nhọc công suy nghĩ, làm sao có thể khiến cho người dân thoát khổ nạn? Một ngày nọ, đợi cho cung tần phi nữ ngủ xong, nhà vua ra vườn hoa, thắp hương khấn vái, các hướng đông, tây, nam, bắc, phát lời thề nguyện: “Nay toàn dân trong nước không cơm ăn, chết đói rất nhiều, tôi nguyện bỏ thân mệnh này hoá thành cá lớn, dùng thịt ở thân tôi để cứu nhân dân qua cơn đói khát”.

Nói xong bèn trèo lên một cây cao, nhắm mắt nhảy xuống, lập tức tán mạng.

Vua Đầu La Kiện Ninh chết đi, trong dòng sông lớn gần kinh thành xuất hiện một con cá thật lớn, từ đầu đến đuôi dài 500 tầm (Trung Quốc cổ đại 8 thước là 1 tầm). Vừa lúc đó có 5 người thợ mộc cầm cưa, vác búa đến bên dòng sông đốn cây lấy gỗ. Cá lớn nhìn thấy có người, bèn chủ động bơi đến nói rằng:

- Nếu các ngươi đói bụng, có thể cắt thịt của ta để ăn. Ăn no rồi có thể đem về nhà. Sau khi trở về phiền các ông nói với dân chúng trong nước, bất luận là ai, nếu không có gì ăn đều đến đây để ăn thịt tôi.

Những người thợ mộc nhìn thấy con cá lớn đã giật mình, lại nghe cá nói chuyện lại càng thêm kinh ngạc. Nghe cá lớn chủ động mời họ đến ăn thịt cá, họ nửa tin nửa ngờ. Sau họ phát hiện cá lớn thành tâm thành ý cho họ ăn thịt, họ mới chuyển từ kinh ngạc sang vui mừng. Vì năm người này đói đã mấy ngày rồi. Vì thế họ bèn lấy dao cắt năm miếng thịt thật lớn nổi lửa lên nướng thịt ăn một bữa thật no. Khi họ rời khỏi nơi đó, cá lớn nói với họ, mỗi người đem một miếng thịt lớn về nhà, lại dặn dò rằng:

- Các ngươi ăn thịt của ta rồi, trở về phải cố gắng làm điều thiện, làm điều lành, thì sẽ được lợi lạc sau này.

Năm người thợ mộc hoan hỷ trở về thành, kể hết cho người dân trong thành nghe chuyện kỳ ngộ của họ, khiến cho mọi người trong thành đều biết được việc nay. Tin tức này lập tức truyền khắp châu Diêm Phù Đề. Dân chúng già trẻ, gái trai không ngừng kéo đến đây cắt thịt cá để ăn.

Chuyện cũng lạ, cá lớn thấy người đến liền nghiêng qua một bên cho người cắt thịt. Khi một bên cắt thịt hết rồi bèn nghiêng qua bên kia cắt thịt. Khi bên này cắt thịt hết rồi thì bên kia bình phục như xưa, lại sinh ra thịt mới cho người cắt ăn.

Không bao lâu, con sông đó bị người đạp thành bình địa. Chỗ cá ở vốn là một nơi hoang dã biến thành thị trấn nhộn nhịp. Con cá đã trở thành cứu tinh lớn của người dân, người dân trong nước đều nhờ thịt cá này mà qua được mười hai năm thiên tai đói kém. Người già ăn thịt cá thì càng sống lâu, con nít ăn thịt cá thì mau lớn, khoẻ mạnh. Không những như vậy, phàm là người ăn thịt cá đều trở nên hiền lành, nhất tâm làm điều thiện.

 

(Thiết Đầu La Kiện Ninh phẩm 33 – kinh Hiền Ngu)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Vì để cho nhân dân không bị đói, cho nên nhà vua hy sinh nguyện hoá làm cá để cho người cắt thịt ăn cho đỡ đói mà không một chút oán hờn hối hận, thật là phẩm tánh cao thượng biết bao ! Điều kỳ diệu nhất là những người ăn thịt cá đều chịu sự cảm hoá của cá mà biến thành tâm địa thiện lương. Một tấm lòng lương thiện quảng đại khiến thế giới càng trở nên tốt đẹp hơn. Nếu chúng ta có thể làm được như vậy, thì hột giống thiện lành của thế giới sẽ sanh sôi nảy nở và nhanh chóng tăng trưởng.

 

Đốt thân làm đèn

 

Rất xưa, ở vùng Nam Á có một đất nước rất rộng lớn, vua của nước này là Kiền Xa Ni Bà Lê. Từ khi vua Kiền Xa Ni Bà Lê lên làm vua cho đến nay, lòng nhân đức của Ngài đã cảm hoá thiên thần, khiến đất nước mưa hoà gió thuận, ngũ cốc dồi dào, quốc khố giàu có, quốc thái dân an. Người dân trong nước xem vua như người cha lành, cảm ơn đội đức.

Một ngày nọ, sau khi xử lý xong việc triều chính, tâm tình nhàn nhã, tự suy nghĩ rằng: “Nay ta làm vua một nước, địa vị cao sang, tôn quý ! Lời ta nói ra bá quan văn võ và toàn dân trong nước đều nghe theo, đất nước thái bình, nhân dân an lạc. Tuy hoàn cảnh tốt đẹp như thế, nhưng chỉ an vui về vật chất, song vật chất có ngày hoại diệt, không phải là sự an vui lâu dài vĩnh viễn. Muốn cho chính mình và tất cả chúng sanh, được an vui vĩnh viễn, ta phải tìm đạo giải thoát, nhưng cho đến hôm nay ta vẫn chưa thực hiện được điều nguyện ước này. Ta nay đã lớn tuổi, điều quan trọng nhất là phải tìm cho được chân ngôn diệu pháp, mới có thể làm cho chúng sinh trăm năm sau vĩnh viễn không có tai hoạ, luôn hưởng được hạnh phúc”. Vua nghĩ đến đây, trong tâm đã có chủ ý, sai các quan viết bảng cáo thị, và phái người đi khắp nơi truyền lệnh cho nhân dân trong cả nước biết :

- Bất luận là già trẻ, gái trai, không kể là giàu nghèo quý tiện, không kể là quan hay dân, nếu có ai bảo cho ta biết được chân ngôn diệu pháp, thì sẽ thoả mãn tất cả những điều người ấy yêu cầu, tuyệt không hối hận, nuốt lời.

Mệnh lệnh của nhà vua vừa truyền ra không bao lâu thì có người tên là Lao Độ Sai đến ngoài cửa hoàng cung lớn tiếng kêu rằng:

- Ta có chân ngôn diệu pháp! Ta có chân ngôn diệu pháp!

Quan giữ cửa lập tức chạy vào nội cung bẩm báo cho vua nghe lời của Lao Độ Sai.

Nhà vua nghe xong vô cùng vui mừng, lập tức y phục nghiêm trang, đại lễ xuất đình, hỏi han ân cần trịnh trọng, và nghinh đón Lao Độ Sai vào trong cung xinh đẹp trang nghiêm, lại mời vào trong đại điện huy hoàng. Lao Độ Sai không chút khiêm nhường bèn ngồi ngay nơi đó, cũng không lời cảm ơn.

Quốc vương tự thân rót trà cho Lao Độ Sai, cung kính như là thượng khách, tiếp đãi vô cùng chu đáo. Hàn huyên đôi lúc, do vì tâm niệm cầu pháp thiết tha, nhà vua thành tâm thành ý thưa thỉnh cầu đạo:

- Cung thỉnh đại sư thương xót quả nhân khai thị chân ngôn diệu pháp, khiến cho quả nhân được mở mang mắt huệ.

Lao Độ Sai chậm chạp từ từ nói:

- Chân ngôn diệu pháp của ta, không dễ dàng tìm được. Ta phải trèo non lội suối đi suốt hết mười năm, khổ học mười năm, gian lao, cực khổ mới học được … Nhà vua sao có thể cầu chân ngôn diệu pháp của ta một cách dễ dàng không giá trị như thế?

Nhà vua vội vàng nói:

- Ngài muốn thứ gì? Xin cho quả nhân biết, Quả nhân sẽ đáp ứng, tuyệt không cải lời, hối hận.

- Vậy thì tốt. Điều ta yêu cầu là trên thân của nhà vua khoét một ngàn cái lỗ, đổ dầu cho bấc, đốt thành ngàn ngọn đèn cúng dường ta. Chỉ có thoả mãn lời yêu cầu của ta, ta mới nói cho nhà vua nghe chân ngôn diệu pháp.

Nhà vua nghe xong, không chút do dự trả lời:

- Một lời đã nói ra nhất định sẽ làm theo như thế.

Và xin khất lại bảy ngày để báo cáo cho dân chúng biết, bèn sai các quan ngày đêm đi đến các nước chư hầu truyền chỉ rằng:

- Sau bảy ngày, quốc vương vì muốn nghe chân ngôn diệu pháp, thân khoét ngàn lỗ đốt ngàn ngọn đèn cúng dường Pháp sư. Ai muốn nghe, và xem sự hy sinh cúng dường của nhà vua thì đến.

Tiểu vương các nước và dân chúng nghe tin này, giống như sấm nổ trời thanh, dân chúng lũ lượt kéo về kinh đô cầu kiến quốc vương. Quan dân đồng quỳ xuống, ai nấy đều tha thiết van cầu nhà vua không nên nghe lời của Lao Độ Sai, càng không nên khoét thân làm đèn. Nhưng mà nhà vua không nói, chỉ cười lắc đầu tạ biệt. Phi tần cung nữ, thái tử, đại thần và những người nô bộc trong hoàng cung đều khuyên nhà vua không nên bỏ thân mạng như thế. Nhưng tâm nhà vua đã kiên quyết như đi đóng cột, không chút thay đổi ý kiến, còn vui vẻ khuyến cáo mọi người :

- Các ngươi không nên làm như vậy, mọi người đã ủng hộ, kính mến ta, thì không nên làm loạn tâm chân thành cầu pháp của ta.

Nhà vua nhìn thấy mọi người vẫn không đứng dậy bèn nói tiếp:

- Tâm ta kiên quyết như thế, vì muốn sau này đắc thành Phật quả. Khi ta thành Phật, đầu tiên sẽ độ các ngươi, không phụ tấm chân tình của các ngươi đối với ta.

Trong trong, ngoài ngoài cung điện đều quỳ đầy cả người, mọi người cùng khóc lớn khẩn cầu nhà vua thay đổi chủ ý. Nhưng nhà vua tâm ý đã quyết, ung dung tự tại, nói với Lao Độ Sai rằng:

- Hôm nay là ngày thứ tám, xin mời đại sư bắt tay vào việc như lời hứa.

Chẳng màng đến sự đau thương khóc lóc của quan dân, Lao Độ Sai cầm con dao bén như nước, sáng lạnh ghê người, khoét những lỗ chằng chịt trên thân quốc vương từ đầu đến chân, sau đó ở trong mỗi lỗ lại chế dầu, bỏ tim vào. Nhà vua đứng yên một chỗ như sắt đúc, mặc cho Lao Độ Sai dùng dao khoét thân mình, sắc mặt không thay đổi. Hoàng tộc thân thích, bá quan văn võ cho đến những người dân đều không dám ngẩng đầu nhìn. Họ không dám nhìn, cũng không nỡ nhìn thấy vị vua mà họ kính yêu đau khổ như thế. Có người bi thương đến nỗi nát tim nát gan bất tỉnh trên mặt đất, những người còn tỉnh táo thì dập đầu khẩn cáo, cầu nguyện cho quốc vương của họ.

Lúc này nhà vua nói với Lao Độ Sai:

- Xin đại sư thương xót, trước nói chân ngôn diệu pháp cho quả nhân nghe, sau đó đốt lửa. Nếu đại sư đốt lửa trước, vạn nhất tôi duyên kém, mạng mỏng, nghe không được chân ngôn diệu pháp thì sao?

Lao Độ Sai gật đầu, đáp ứng lời yêu cầu của nhà vua, bèn niệm rằng:

Thường giả giai tận.

Cao giả tất truỵ

Hội giả tất ly

Sinh giả giai tử.

Nghĩa là :

Thường rồi có hết,

Cao thì phải rơi,

Hợp rồi tan lìa,

Sinh ắt phải chết.

Lao Độ Sai đọc xong bèn dùng lửa châm vào tim đèn trên thân của nhà vua. Trong nháy mắt, ngọn lửa bốc lên cao thấu trời xanh.

Nhà vua đứng trong đám lửa, mặt vẫn tươi cười, an nhiên tự tại, không chút đau khổ. Nhà vua thầm phát nguyện:

- Ta thành tâm thành ý cầu pháp, nếu tương lai có thể thành Phật đầu tiên dùng ngọn lửa trí huệ phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới, khiến chúng sanh không còn ngu muội vô tri. Phật quang vĩnh viễn không đứt, khiến cho càn khôn đại địa lúc nào cũng quang minh sáng suốt.

Lời thề nguyện và sự thành tâm của nhà vua đã cảm động cả trời đất. Lúc đó chư thiên đứng đầy cả hư không, đều cảm động rớt nước mắt. Nước mắt của chư thiên rơi xuống hoá thành mưa lớn, chỉ trong khoảnh khắc nước trong sông hồ dâng cao. Các vị thiên nữ cũng vì vua Kiền Xa Ni Bà Lê mà múa hát, họ vừa múa, vừa hát, vừa rải những hoa trời trăm ngàn màu sắc. Những hoa trời rực rỡ này từ không trung rơi trên mình quốc vương. Lúc đó, vua trời Đế Thích đến trước mặt nhà vua hỏi:

- Quốc vương à, vua có cảm thấy đau nhức chăng? Ngài có cảm thấy đau khổ chẳng? Vua nay có hối hận không ?

Nhà vua lập tức trả lời không chút suy nghĩ:

- Thưa không.

Vua trời Đế Thích lại hỏi:

- Tôi thấy thân vua run rẩy không yên như vậy. Tuy miệng vua nói không đau, không khổ, không hối hận, nhưng ai có thể tin được?

Nhà vua bèn phát lời thề nguyện:

- Tôi không bao giờ có chút hối hận. Nếu có thì những vết thương trong mình tôi không thể lành. Nếu không có thì những vết thương trong mình tôi lập tức lành lặn, khôi phục như xưa.

Lời nói vừa dứt, thì những vết thương trên mình nhà vua không nhìn thấy nữa, thân thể bình phục như xưa. Lúc này chư thiên vui vẻ, thiên nữ ca hát nhảy múa, quan dân tán dương ca ngợi, vừa ca vừa múa, hoàng tộc thân thích cùng ôm nhau vui mừng, thật là một cảnh tượng hoan lạc chưa từng có. Còn tên Lao Độ Sai thì lén bỏ đi.

 

(Phẩm Phạm thiên thỉnh pháp - kinh Hiền Ngu)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Vì sự an lạc của đại chúng, từ bi hy sinh thân mạng của mình, loại người này thật không nhiều, nhưng giống như vua Ni Bà Lê, khi mà dân chúng được an lạc, vẫn lo lắng cho thiên hạ trước rồi mới lo đến mình. Vì dân cầu phước mà không tiếc thân mạng của mình, khoét thân hàng ngàn lỗ để châm dầu đốt đèn cầu chánh pháp thật là đáng quý, thật là khó làm ! Chúng ta mỗi người nếu có thể lo cho sự an vui của thiên hạ như vậy thì ngày an lạc hạnh phúc sẽ cách chúng ta không xa.

 

Xả thân bố thí

 

Thuở xưa có một quốc gia tên là Diêm Phù Đề, vì quốc vương làm lợi ích cho dân chúng, trị nước có phương pháp, nên nước giàu dân mạnh, đất nước được an lạc thái bình. Nhưng có một việc khiến cho trong hoàng cung cảm thấy không an là vua và hoàng hậu Huệ Sự kết hôn đã lâu năm rồi mà vẫn chưa có con.

Vì để cầu con, quốc vương và hoàng hậu đi khắp nơi lễ Phật bái Thần tìm thuốc, trời Phật không phụ người có tấm lòng thành, cuối cùng hoàng hậu đã hoài thai. Quốc vương được tin này không còn nỗi mừng nào hơn nữa, tự mình sai người săn sóc miếng ăn thức uống cho hoàng hậu. Trong hoàng cung trên dưới không ai dám một chút chậm trễ. Trời ban ngày tốt, hoàng hậu sanh một đứa con trai dung mạo đoan chánh, toàn triều văn võ bá quan đều đến chúc mừng, quốc vương đặt tên cho con là Huệ Đăng.

Nhưng không bao lâu quốc vương băng hà, lúc đó thái tử còn nhỏ, không thể chấp chánh quản lý việc nước, sau khi thương nghị, trước khi thái tử lớn khôn, tạm thời sẽ do chúng đại thần thay thế quản lý việc nước.

Huệ Sự là một hoàng hậu rất thông minh hiền thục, bà đem hết tất cả thời gian và tinh lực của mình để dạy dỗ thái tử. Thái tử từ nhỏ đã tỏ ra thông minh hơn người, phàm là việc gì vừa học liền biết. Khi thái tử được tám, chín tuổi hoàng hậu dạy cho thái tử đọc sách, toán thuật, võ nghệ, cưỡi ngựa v.v…; nhưng thái tử quá thông minh, mười lăm tuổi đã có sự học thức và bản lãnh rất cao.

Các vị đại thần cảm thấy thái tử đã đầy đủ năng lực trị vì đất nước, bèn cùng nhau dâng sớ yêu cầu thái tử kế vị. Quốc gia không thể một ngày không vua, mà quốc vương qua đời đã lâu rồi.

Thái tử do dự nói, mình không muốn làm vua, vì kiếp trước thái tử đã từng làm vua sáu năm kết quả đoạ địa ngục sáu vạn năm, Ngài không muốn phải đoạ vào địa ngục lần nữa.

Chúng đại thần không biết làm sao hỏi :

- Chẳng lẽ không có cách nào giải quyết vấn đề này hay sao?

Thái tử suy nghĩ một hồi rồi trả lời :

- Phương pháp giải quyết thì có, đó là người ở nước Diêm Phù Đề này không kể là nam nữ già trẻ, chỉ cần là người biết nói, đều phải giữ 10 điều thiện (thập thiện) của Phật giáo.

Thái tử biết điều này không dễ dàng thực hiện được, nhưng chỉ có thực hiện theo cách này Ngài mới lên làm vua. Chúng đại thần tha thiết mong thái tử lên ngôi vua nên chiếu theo nguyện vọng của thái tử, lập tức phát bố cáo thị cho toàn quốc, yêu cầu nhân dân trong nước đều phải thực hiện thập thiện của Phật giáo, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời thêu dệt, không ác khẩu, không tham, không sân, không si, Nhân dân toàn quốc đều nhiệt tình hưởng ứng.

Thái tử nhìn thấy nhân dân trong nước cùng nhau hành thập thiện mới chịu lên ngôi báu, làm vua trị vì đất nước. Sau khi thái tử lên ngôi, xuất hiện những hiện tượng lạ thường, nhiều nơi dưới đất trồi lên kinh sách Phật giáo. Các vị đại thần biết những kinh sách dưới đất là những kinh sách trân quý trên đời nên họ kiến nghị đem những kinh sách này cất vào trong kho sách kinh của nhà vua.

Nhà vua nghe xong không tán thành, nói những kinh sách này trồi lên nhiều như vậy là để hoằng dương Phật pháp, để sử dụng cho mục đích lợi ích của chúng sanh, làm sao có thể cất giữ đi ? Ngài ra lệnh đem những kinh sách này để ở ngã tư trên mọi nẻo đường đất nước tặng cho Bà la môn và những người nghèo khổ cô độc già cả.

Sau đó, những đường lớn nhỏ ở nước Diêm Phù Đề đều xếp đầy kinh điển Phật giáo làm cho vua trời Đế Thích chú ý. Vua trời Đế Thích hoài nghi hành động của nhà vua mới này chứa giấu tâm niệm danh lợi, nên quyết định đến thử thách nhà vua.

Vua trời Đế Thích hoá thành một nam tử, đến một ngã tư đường, lúc này ở đây sự bố thí đang tiến hành một cách náo nhiệt. Vua trời Đế Thích hỏi mọi người:

- Các ông làm gì vậy?.

Người trả lời:

- Quốc vương dạy chúng tôi hành thập thiện.

Vua trời Đế Thích làm bộ lạ lùng kinh ngạc nói:

- Quốc vương của các ông kêu các ông làm mười điều thiện, nhưng tại sao lại kêu tôi làm mười điều ác (thập ác), Quốc vương của các ông làm cái gì mà kỳ lạ vậy?

Người đó lập tức đem lời của vua trời Đế Thích báo cáo cho các quan đại thần, các quan đại thần lại lập tức đi hỏi nhà vua thật là có việc đó chăng. Nhà vua trả lời:

- Ta đã từng ra lệnh cho nhân dân trong nước đều phải thực hành 10 điều thiện, không bao giờ ta nói là 10 điều ác. Nay đã có người nói như thế, chúng ta đi xem như thế nào!

Trong một chỗ sơ sài chật hẹp, Quốc vương nhìn thấy người nam tử đó tức là vua trời Đế Thích hoá thân. Vua hỏi:

- Có phải nhà ngươi đã nói ta kêu nhà ngươi đi làm 10 điều ác chăng?

Đế Thích trả lời một cách khẳng định:

- Đúng là Ngài kêu tôi đi làm 10 điều ác.

Quốc vương biết người này có ý nói như vậy, không tranh luận mà nhẫn nại nói:

- Ngươi nay có thể bỏ 10 điều ác mà thực hiện 10 điều thiện không?

Vua trời Đế Thích trả lời:

- Xem Ngài có bằng lòng hay không. Nếu Ngài để cho tôi ăn thịt của Ngài, uống máu của Ngài, sau khi ăn xong tôi sẽ thực hành đạo đại từ đại bi của Bồ tát, vĩnh viễn không làm việc ác.

Các quan đại thần nghe lời nói như vậy vô cùng phẫn nộ, còn Quốc vương thì trầm lặng một hồi, Ngài nhớ lại những sự luân hồi khổ não mà Ngài đã chịu trong vô lượng kiếp, đã chịu những thảm hình khốc liệt, nay chỉ có một chút máu thịt có đáng gì đâu.

Vì thế vua bèn lấy con dao đem theo bên mình cắt một miếng thịt đùi, dùng bát hứng máu đưa cho vua trời rồi thành khẩn nói:

- Ngươi ăn thịt uống máu của ta xong, thì trở về cùng với nhân dân trong nước phụng hành 10 điều thiện.

Lời của vua vừa xong thì người nam tử đó không thấy nữa mà vua trời Đế Thích hiện thân trước mặt nhà vua. Vua trời dùng nước cam lồ ở cõi trời rửa lành vết thương của nhà vua, miệng mỉm cười từ bi, hoan hỷ.

 

(Huệ Đăng vương bố thí máu thịt – Kinh luật dị tướng)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Ở trên thế gian này, người làm việc thiện rất nhiều, nhưng mà giống như vua Huệ Đăng không tiếc máu thịt để bày tỏ quyết tâm thực hiện điều lành thật là hiếm có. Vua Huệ Đăng vì có tâm hướng thiện mà có thể khiến cho xương thịt sanh trưởng, kỳ thực trong hiện thực há chẳng phải như vậy sao? Vì sự quyên tặng giúp đỡ của người có lòng tốt mà nhiều đứa trẻ thất học được quay trở lại trường tiếp tục sự học, từ đó thay đổi cuộc sống của mình một ngày một tốt đẹp hơn, đó là kết quả đồng tâm hiệp lực, làm lành cứu trợ của mọi người.

 

Xả thân cứu nước

 

Ngày xưa, vua nước Ba La Nại tên là Ba Da. Khi Ngài làm vua thường lấy lòng nhân từ để cai trị đất nước, không cần dùng vũ lực, vũ khí ngục tù đều huỷ bỏ, dân chúng đều tuân thủ pháp luật, dân chúng cơm no áo ấm, đất nước thái bình an lạc, ngay cả chư thiên cũng tán thán công đức của nhà vua.

Quốc vương lân bang nghe nói đất nước này phồn hoa, giàu có như thế, bèn bàn bạc với các quan đại thần:

- Đất nước đó giàu có như thế, ta muốn đem quân chinh phạt chiếm cho được.

Các quan đại thần và cung phi đều tán đồng. Vì thế nhà vua nước lân bang bèn điều động toàn bộ binh lực đem quân đánh nước Ba La Nại.

Dân chúng nước Ba La Nai nghe được tin này, cùng nhau động viên chuẩn bị đối phó với quân xâm lược ngoại lai. Họ khẩn trương huấn luyện, chế tạo binh khí, chuẩn bị lương thực, lo đủ mọi thứ để đánh cường địch ngoại xâm.

Vua Ba Da nhìn thấy hai nước có khả năng chiến tranh, tình thế khẩn cấp, buồn bã triệu tập các quan đại thần nói:

- Đây là do vì ta mà có chiến tranh. Khi đánh trận hai bên giao chiến kẻ chết người bị thương rất nhiều, dân chúng cũng lâm vào cảnh chết chóc, huỷ hoại rất nhiều tài sản vật chất. Tại sao không thể lấy đức để cho người mến phục, mà phải dùng những phương pháp tàn nhẫn như sài lang hổ báo? Ta thà mất đi thân mạng chứ không bỏ đi tâm niệm từ bi của mình. Thôi các vị hãy lui ra, ngày mai lại đến thương nghị.

Tối hôm đó, vua Ba Da thay đổi y phục, lén trốn ra khỏi thành, đi vào trong núi, ngồi dưới một gốc cây trầm tư. Lúc đó, dưới ánh trăng mông lung, một vị Bà la môn già đang đi trên con đường núi ngoằn ngoèo bước đến. Nhìn thấy dưới gốc cây có người ngồi đó, vị Bà la môn già bèn đến thăm hỏi:

- Đức vua của các ông khoẻ mạnh chứ?

Vua Ba Da trả lời:

- Nhà vua đã chết rồi.

Vị Bà la môn già nghe câu nói đó thương tâm khóc lóc không thôi. Vua Ba Da nhìn thấy ông ta bi thảm như thế, cảm thấy kỳ lạ bèn hỏi:

- Tại sao ông bi thương như vậy? Ông là ai ?

Ông già Bà la môn nói:

- Tôi sớm nghe vua Ba Da vô cùng thương mến dân chúng, lòng từ bi đức độ của Ngài như trời Đế Thích đối với chúng sanh. Tôi từ xa đến đây, muốn đi bái kiến nhà vua, nhưng không ngờ nhà vua đã không còn ở trên cõi đời nữa, tôi vừa già, vừa nghèo, để đến đây yết kiến đức vua, tôi đã dùng hết tài sản tích luỹ suốt cuộc đời.

Vua Ba Da nói:

- Tôi chính là vua Ba Da. Nay có cơ hội có thể khiến cho ông thoát khỏi cảnh bần cùng khốn khổ. Vua nước lân bang biết đất nước của tôi giàu có, sung túc, tiền của dồi dào, bèn đem binh đến đánh nước của tôi. Nay vua nước lân bang đã xâm chiếm thủ đô, và tuyên bố trọng thưởng cho ai lấy được thủ cấp của tôi. Ông chỉ cần chặt đầu của tôi đem áo mão và bảo kiếm của ta dâng cho nhà vua kia thì sẽ được trọng thưởng. Vật thưởng dồi dào, ông sử dụng một đời không hết, còn có thể để lại cho con cháu đời sau, chúng nó sẽ không còn nghèo khổ nữa, Như thế tâm tôi cũng rất vui.

Vị Bà la môn già trả lời:

- Tâu đại vương ! Đây là lòng tốt của Ngài, nhưng việc làm bất nhân bất nghĩa như vậy, tôi thà chết chứ không làm.

Vua Ba Da nghĩ rằng: “Xem lại ông già này thà chết nghèo chết đói chứ không chịu sát hại ta. Nhưng nếu ta tự chặt đầu cho ông ta, có phải là ông ta không có tội không ?” Vì thế vua Ba Da bèn lễ bái khắp mười phương, rơi lệ nói rằng:

- Khi người dân trong nước gặp nguy nan, ta phải cứu giúp họ, an ủi họ. Khi người dân không hiểu đạo lý, đi trên con đường tà thì ta phải hướng dẫn cho họ về con đường chánh. Nay gặp ông già này, ta phải dùng đầu của ta để giúp cho ông thoát khỏi cảnh nghèo khổ khó khăn. Ta tự chặt đầu thì ông ta không có tội!

Nói xong liền rút kiếm tự sát. Ông già Bà la môn lấy đầu của vua, cùng đem theo áo mão và bảo kiếm, vào thành yết kiến ông vua láng giềng. Vua hỏi vị Bà la môn:

- Có phải ngươi giết ông ta không ?

Vị Bà la môn liền kể cho vua nghe tường tận câu chuyện. Câu chuyện liền lập tức truyền khắp kinh thành. Người dân sau khi biết được chuyện này, đều đau khổ, bi thương, khóc lóc đầy đường phố. Có một số người vì bi thương quá độ hộc máu hoặc bất tỉnh mà chết, ngay cả những người võ sĩ kiêu hùng cũng đều thương khóc.

Nhà vua láng giềng vô cùng cảm động trước hành vi của vua Ba Da, ngửa mặt lên trời than rằng:

- Ta thật quá tàn nhẫn, đã giết hại vị vua nhân từ này.

Bèn đem thi thể của vua Ba Da về, dùng vàng gắn với đầu để tại chánh điện, lại lập con của vua Ba Da làm vua, toàn dân trong nước đều nhiệt tình yêu mến con của vua Ba Da. Sau đó, hai nước đời đời kết giao thân thiện, không còn xảy ra việc chiến tranh nữa

 

(Kinh Vua Ba Da – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Xả thân mình để cứu nhiều người, hy sinh một mạng mà bảo toàn được sự bình an cho cả nước, hành vi cao thượng, chí công vô tư của vua Ba Da là tấm gương sáng cho mọi người chúng ta học tập. Khuyên mọi người dứt bỏ chiến tranh, bảo vệ đất nước thái bình, nhân dân được an lạc, còn gì hơn tấm lòng lành trị nước tốt đẹp của nhà vua? Dù chúng ta là người bình thường, không nhất định có cơ hội hy sinh bản thân của mình mà bảo tồn được cả nước, nhưng những cử chỉ tốt đẹp, tấm lòng cao thượng nhân từ có thể khiến chúng ta trở thành người tốt hơn.

 

Cứu người trên biển cả

 

Thuở xưa, người ta thường đi ra biển để tìm châu ngọc. Trên biển tìm ngọc, vì sự nguy hiểm rất lớn nên mọi người thường kết bạn mà đi.

Một lần nọ có 500 người thương buôn đã vượt qua mọi gian nan hiểm trở, cuối cùng tìm được rất nhiều trân bảo ngọc ngà. Khi chất đầy thuyền trở về, gió to nổi lên, mây đen cuồn cuộn kéo đến che kín cả bầu trời, mặt biển một màu đen kịt.

Trong ánh sáng tia chớp vừa loé lên, mọi người nhìn thấy chung quanh mình vô số những con mắt hung hăng dữ tợn, đỏ như máu nhìn vào mình. Đoàn thương nhân đều hoảng hốt, vì họ biết những con mắt đó là mắt của thần biển, họ đã bị thần biển bao vây rồi. Căn cứ kinh nghiệm của họ, khi gặp thần biển thì không có cơ hội sống sót trở về. Trong lúc vạn phần nguy hiểm, họ chỉ đành tuyệt vọng chờ cái chết đến với mình.

Trong số thương nhân, có một người thương nhân trẻ lúc đầu cũng lo sợ hoảng hốt, tuyệt vọng như những người khác. Nhưng sau đó người này đã bình tĩnh trở lại, anh ta nghĩ, lo lắng, hoảng hốt, tuyệt vọng đều không thể giải quyết được việc gì, nay nên tìm một phương cách nào để cứu mạng mọi người.

Anh ta nghĩ ra một việc, anh ta từng người nói thần biển có một tật là ghét nhất tử thi. Nếu quăng tử thi vào trong biển cả, thần biển có lẽ sẽ chạy mất dạng, như thế mọi người có thể được cứu. Nhưng trong đại hải mênh mông bao la tìm đâu ra được tử thi?

Anh ta nghĩ đến mình. Nếu mình có thể thành một tử thi làm những thần biển sợ chạy, dùng mạng sống của mình để đổi lại mạng sống những người trên thuyền, thì cũng đáng giá. Anh ta quả đoán quyết định điều đó, không tiếc thân mình để cứu những người trên thuyền. Anh ta hét với những người trên thuyền rằng:

- Các ông ôm chặt lấy tôi.

Những người thương nhân đang kinh hoàng không có kịp suy nghĩ tại sao anh ta lại kêu mình làm như vậy. Họ chỉ làm theo như cái máy. Họ vừa nắm chặt lấy anh ta thì không ngờ anh ta lấy ra một con dao ngắn, đâm mạnh vào yết hầu của mình. Máu tươi phún lên rất cao, phún ở trên mặt thuyền, trên đầu, trên mặt của thần biển và cả trên sóng biển nữa.

Thần biển kinh hoàng bỏ chạy, mặt biển gió ngừng sóng lặng.

Đám thương nhân vô cùng chấn động trước cử chỉ của người thanh niên. Họ ôm lấy thi thể của người thanh niên bi thảm khóc thét, kêu trời kêu đất, họ cho rằng anh ta là Bồ tát giáng phàm.

- Thà để cho chúng ta là những người phàm phu tục tử chết sạch, cũng không nên để cho người có đức hạnh như vậy chết đi. Trời ơi! Xin Ngài từ bi cứu người thanh niên này!

Vua trời Đế Thích nghe những tiếng kêu cứu của đoàn thương nhân, vô cùng cảm động trước tinh thần của người thanh niên và những dòng lệ bi thương của những người thương nhân, nên phái thiên thần đem thuốc tiên xuống. Thiên thần vừa đổ thuốc tiên vào miệng, anh lập tức tỉnh lại.

Anh ngơ ngác nhìn những người thương nhân vừa khóc vừa cười đang bao vây xung quanh mình, không biết việc gì phát sanh. Đoàn thương nhân tranh nhau kể cho anh ta việc đã trải qua, anh ta biết những người thương nhân vì anh mà khóc lại được thiên thần cứu sống, nên vô cùng cảm động.

Nhìn những sự khổ nạn mà đoàn thương nhân đã trải qua, vua trời Đế Thích phát lòng từ bi tặng cho họ rất nhiều kỳ trân dị bảo, đoàn thương nhân vui vẻ lên đường trở về nhà.

 

(Kinh giết mình cứu người – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Đối diện với tai nạn, người ta thường không tự chủ để lộ ra bản tánh chân thực của mình, tự cho rằng mình xui xẻo, thúc thủ chịu chết khiến người cảm thấy tội nghiệp, nhưng đối với người có thể trầm tĩnh tìm phương cách đối phó và có dũng khí hy sinh thân mạng cứu người thì khiến cho mọi người kính phục. Người thanh niên trong câu chuyện là một anh hùng đáng kính. Sự hy sinh của anh đã làm vua trời Đế Thích cảm động, đem thuốc tiên xuống cứu mạng, khiến anh chết đi mà được sống lại, trở về đoàn tụ với gia đình. Hy vọng trong cuộc sống hiện thực, những người anh hùng xả thân cứu người cũng được bình an hạnh phúc.

 

Thỏ tự thiêu

 

Thuở xưa, trong rừng có một vị tiên nhân, sống cuộc đời ẩn cư cách tuyệt người thế, ông ta sống vui vẻ với một chú thỏ trong rừng, thành đôi bạn thân. Chú thỏ dễ thương này tuy ôn nhu, hoà thiện, nhưng rất có sức mạnh, lại có gan lớn, hào khí ngất trời. Nó không sợ bị thú dữ tập kích, chuyên bênh vực và giúp đỡ những con thú nhỏ, nên được các loài động vật thương mến.

Có năm trời hạn hán, cây cỏ khô héo, ngay rễ cây cũng khô cằn. Vị tiên nói với chú thỏ:

- Trời thiên tai như vậy, ta chỉ đành đến ngôi làng ở ngoài rừng xin thức ăn để duy trì mạng sống.

Thỏ nói:

- Không nên đi, con có thể giúp Ngài tìm đồ ăn.

Nhưng trong rừng không còn cây trái nào để ăn. Thỏ cung kính đến trước mặt vị tiên, nhìn vị tiên tha thiết, chân thành nói:

- Trong rừng, một chút đồ ăn nhỏ nhoi như hạt mè cũng tìm không ra, con chỉ đành nướng thân của con để cúng dường cho Ngài. Xin Ngài nhận lễ vật hiến dâng của con.

Tiên nhân nghe thỏ nói như vậy rất cảm động:

- Lòng thành tâm của con ta vô cùng cảm kích, nhưng ta là người trong Phật môn, từ trước đến nay không bao giờ sát sanh, làm sao có thể để cho người bạn hiền của mình chết một cách oan uổng như vậy?

Thỏ thấy vị tiên không chịu nhận, nói:

- Kinh Phật cho phép con làm như vậy, trước khi tìm cách giải quyết, xin Ngài hãy ở lại đây.

Thế là thỏ bèn đi gom củi khô lại, sau đó mời vị tiên đến nói:

- Ngài nhất định phải nhận thức ăn của con làm ra, như vậy trời sẽ mưa lớn. Mưa lớn xong 3 ngày trong rừng sẽ có trái cây ngon ngọt mọc ra, lúc đó Ngài có thể hái quả rừng ăn cho đỡ đói, xin Ngài đừng vào trong làng xóm của người.

Nói xong, chú thỏ nổi lửa, nhảy vào trong đám lửa. Vị tiên thấy như vậy than rằng:

- Người bạn hiền trong núi rừng của ta, vì để giải quyết sự sống còn của ta mà xả thân tự thiêu, thật là hiếm có!

Thế là tiên nhân ăn thịt thỏ, trời xanh cảm động trước tấm lòng lành của chú thỏ bèn cho mưa xuống, tiên nhân được ở lại trong rừng sâu, được ăn những trái cây rừng tươi ngon, tu tập Phật pháp, được chứng đắc 5 loại thần thông.

 

(Tạp bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Cứu người tức là cứu mình. Có lúc hy sinh một mạng mà bảo toàn được đại thể, xả thân vì người khiến cho sanh mạng của ta kéo dài, khiến cho tiếng tốt của mình lưu truyền khắp nơi.

 

Chương hai

Quả báo thiện ác

 

La hán gặp nạn

 

Xưa kia, ở nước Kế Tân Tây Vực, có một vị cao Tăng tên là Ly Việt, ở trong hang động trên một đỉnh núi tu hành, công phu thiền định rất chuyên cần, chứng đắc quả A la hán. Tuy Ngài đã chứng Thánh quả, nhưng vẫn tinh cần tu trì không ngừng, thời gian ngủ nghỉ rất ít. Vào một ngày nọ, có chút thời gian rỗi rảnh, Ngài mới dọn dẹp những vật linh tinh trong hang động. Ngài nhìn thấy tấm y mà mình thường mặc, trải qua thời gian lâu dài, màu xám tro đã dần dần biến thành màu bạc trắng, bèn đi vào trong núi, hái một số rễ cỏ và vỏ cây để làm thuốc nhuộm lại tấm y đó. Bỏ tấm y trong nồi thuốc nhuộm thì lạ thay tấm y mà Ngài đang nhuộm trong nồi lại biến thành một tấm da trâu, nước nhuộm trong nồi đang đen như mực bỗng biến thành nước đỏ như máu và những rễ cỏ vỏ cây lại biến thành từng miếng thịt trâu. Quái dị hơn nữa là mùi thịt trâu lại bốc lên từ trong nồi thuốc nhuộm.

Ly Việt đang lúc kinh ngạc, thì đúng lúc ấy một người nông phu chạy đến, nhìn thấy thịt trâu và da trâu trong nồi, bèn giận dữ hét lớn:

- A! Ông thật là to gan, hôm nay khai sát giới, giết trâu cày của tôi. Buổi sáng tôi cột con trâu này ở bên rừng ăn cỏ, không bao lâu thì thấy mất trâu, tôi tìm khắp nơi mà tìm không ra, thì ra chính là ông, một kẻ xuất gia đã ăn trộm con trâu lại giết ăn, may mà có cơn gió thổi mùi thịt trâu vào mũi của tôi nên tôi mới tìm được đến đây. Bây giờ ông còn lời gì để nói không? Đi ! đi ! đi theo tôi đến chỗ nhà vua.

Người nông phu nóng giận này không để cho Ly Việt phân trần, kéo Ngài đến chỗ quốc vương. Người nông phu kể hết cho quốc vương câu chuyện đã xảy ra như vậy, quốc vương hỏi Ly Việt có gì để biện bạch, nhưng chứng cớ đã rành rành như vậy thì còn nói được gì? Vì thế, Ly Việt bị vua phán 12 năm tù.

Trong thời gian 12 năm này, La hán Ly Việt ban ngày thì làm những công việc dọn dẹp, quét dọn nhà lao và chùi rửa nhà vệ sinh cho sạch sẽ, ban đêm lại dụng công ngồi thiền, không bao giờ nằm xuống. Sự từ bi và nhẫn nhục của Ngài đã làm rất nhiều cai ngục và lính vô cùng cảm động.

Thời kỳ 12 năm tù đã mãn hạn, những người đệ tử tham thiền trong núi xưa kia đều không hẹn mà cùng nhớ đến người thầy trong núi. Mỗi người đều vận dụng thần thông quan sát mới biết sư phụ bị 12 năm hàm oan. Mọi người đều bay đến hoàng cung, ở trên không trung đánh lên tiếng trống pháp kêu oan cho sư phụ. Lúc này vua biết được vô cùng kinh ngạc, tự mình đến nhà giam tha cho La hán Ly Việt. Lúc này Ly Việt râu đã bạc, tóc đã dài, nhưng khi Ngài bước chân đi ra khỏi cửa của nhà giam, tự nhiên râu tóc tự động rụng xuống, và Ngài bay trên hư không, biến ra vô lượng hoá thân, mỗi hoá thân lại phóng hào quang lớn. Thái độ an nhiên của Ngài không giống như người mới ra khỏi nhà giam. Lúc đó, các vị La hán khác muốn trừng phạt nhà vua xử lý công việc không sáng suốt. Nhưng Ly Việt ngăn lại nói:

- Các con không được làm như vậy, đây là nghiệp chướng của ta, không nên oán trách người. Trong một kiếp quá khứ ta là người nông phu, có lần bị mất con trâu, ta vào trong núi kiếm tìm, nhưng tìm không ra. Trong núi gặp một vị xuất gia tu hành, ta không biết ất giáp gì lại nghi ngờ cho Ngài ăn trộm. Trong 12 giờ của ngày đó, trong tâm của ta lúc nào cũng khởi lên vọng niệm là muốn đuổi Ngài ra khỏi núi, bắt Ngài giao cho quốc vương giam vào ngục. Vì thế, ta đã tạo nên nghiệp, kiếp này phải chịu 12 năm hàm oan trong ngục. Giống như mượn tiền vậy, thời gian càng dài, lợi tức càng cao, quả báo của ta phải hoàn trả gấp hơn tám ngàn lần. Ta không oán hận người khác, chỉ hận mình xưa kia tại sao làm những việc bất lợi cho người, mà không phát thiện tâm, bố thí cho người, mà còn trách móc người tu hành.

 

(Ly Việt bị phỉ báng - Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Đọc câu chuyện của La hán Ly Việt, mọi người đều giác ngộ một cách sâu sắc, hiểu rõ đạo lý nhân quả không sai. Bất luận là ai, cũng không thể thoát khỏi nhân quả. Từ việc làm thiện hoặc làm ác cho đến lúc nhận chịu quả báo, thời gian có nhanh có chậm. Nhanh thì kiếp này nhận quả báo; chậm thì kiếp trước tạo nhân, kiếp này mới nhận quả báo, hoặc kiếp này tạo nhân kiếp sau mới lãnh thọ quả báo.

 

Phi lễ với thiếu nữ

 

Có tôn giả Ca Da là anh em chú bác với đức Phật. Một hôm Ngài trên toà sen kể cho mọi người nghe những quả báo khổ đau mà Ngài đã chịu ở nhiều kiếp trước:

- Ta ở thời quá khứ là một người thương nhân nhỏ, bán các loại nhang. Lúc đó vì thường thân cận các bậc đại đức nên cũng hiểu sơ về đạo lý Phật giáo, biết lễ kính Tam bảo, biết siêng năng tu tập các công đức lành, đương nhiên cũng hiểu rõ quả báo thiện ác. Vì chỗ ở của ta ở gần đạo trường, nên làm nghề bán nhang, bán đủ các thứ nhang thơm. Sau đó nhang của ta nổi tiếng, bất luận là xa xôi đến đâu cũng tìm đến ta mua nhang nên việc buôn bán của ta rất phát đạt. Tuy cuộc sống rất an ổn, nhưng những tập khí đời thường không thể hoàn toàn đoạn trừ, dục vọng hồng trần vẫn thường xao động trong tâm. Sự dụ dỗ của ngoại cảnh bên ngoài ta không dằn được nên đã phạm tội.

Một ngày nọ có một thiếu nữ đến quán ta mua nhang. Cô này rất xinh đẹp, còn mặc y phục hoa lệ cho nên càng nhìn càng cảm thấy dễ thương. Cô ta vô tâm giao tiếp nói chuyện với ta, mà ta trong lúc dâm niệm nổi lên đã đưa bàn tay vô lễ của ta nắm lấy cánh tay tôn quý của cô. Lúc đó cô ta nhìn thấy ta phi lễ như vậy lập tức nghiêm nét mặt nói ta không thể xâm phạm cô như vậy. May mà ta có một niệm sám hối lập tức rút cánh tay lại, nhưng đã quá muộn, chính vì vọng niệm nhất thời sanh khởi mà tội nghiệp đã thành lập sau khi mạng chung, lập tức đoạ vào địa ngục thiêu tay chịu khổ.

Khi ở trong địa ngục thiêu tay chịu khổ, có lẽ khi ta còn sống từng nghe Phật pháp, biết sám hối, nên trong lúc đau khổ ta bèn phát nguyện sám hối. Sau đó lửa tắt đi, quả báo trong địa ngục cũng hết, ta được sanh vào trong cõi người. Tuy may mắn được sanh vào trong cõi người, nhưng tay phải thường giống như cây khô vậy, máu huyết không thể lưu thông, mỗi khi động niệm thì cánh tay đau nhức, làm việc gì đều cảm thấy đau khổ không chịu được. Ta đã từng mời rất nhiều danh y đến chữa trị, uống thuốc, nhưng không một chút hiệu quả, thật là quá đau khổ. Sự đau khổ này trải qua nhiều đời nhiều kiếp, sau đó lại gặp đức Phật ra đời mới đến trước Phật xin Ngài cứu độ và xuất gia làm sa môn, chứng đắc quả A la hán, được Niết bàn thanh tịnh giải thoát.

 

(Phẩm Ca Da – Kinh Phật ngũ bách đệ tử tự thuyết bổn khởi)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Người ta thường nói “no ấm thì nghĩ đến sự dâm dục, đói khát cơ hàn thì khởi lên tâm trộm”, tà dâm là một loại dục vọng chấp trước của nhân loại, hành vi xấu ác phi lễ với thiếu nữ khiến cho tôn giả gặp phải quả báo đau khổ. Làm người cũng vậy, không nên khởi lên tà niệm, mà thường khởi thiện niệm, làm việc thiện lành, đó là chánh đạo ở nhân gian.

 

Hành thiện thoát nạn

 

Xưa có một người nhà giàu tên là Tiên Thán, tin phụng Tam Bảo, thông hiểu giáo điển. Tiên Thán nghĩ: “Con người ở thế gian này không ai tránh khỏi có lúc nhức đầu, nóng lạnh, cảm mạo… Ta nên mua thuốc để bố thí làm phước cho người, trị bệnh cho họ, quan tâm đến sức khoẻ của họ”. Vì thế ông bèn kiếm các thứ thuốc danh quý, mỗi ngày ở chợ bố thí cho những người bệnh hoạn. Thời gian kéo dài, tài sản của Tiên Thán dần dần kiệt quệ, nhưng ông ta vẫn đi kiếm thuốc cho bệnh nhân. Bệnh nhân lành bệnh còn Tiên Thán thì nợ một số tiền rất lớn, cuộc sống đói khổ, quẫn bách.

Lúc đó, có một số thương nhân kết bạn lên thuyền ra biển tìm kiếm ngọc ngà châu báu, Tiên Thán cũng muốn thử vận may, mượn một số tiền cùng đi với đoàn thương nhân ra biển tìm châu ngọc. Trải khó khăn gian khổ nỗ lực tìm kiếm, họ đã kiếm được rất nhiều báu vật, vì thế vui mừng lên thuyền trở về nước. Những người thương nhân đó để ý đến trong số báu vật của Tiên Thán có một hạt ngọc trai trắng rất lớn, lóng lánh tuyệt với, thật là một báu vật hiếm có trên đời. Trong tâm của họ vừa hâm mộ, vừa đố kỵ nên sinh lòng xấu. Họ nhìn thấy Tiên Thán đang cúi mình trên giếng múc nước uống, thật là một cơ hội đoạt tài hại mệnh, bèn cùng nhau xông đến xô Tiên Thán vào trong miệng giếng.

Do Tiên Thán bình thường làm rất nhiều việc thiện lành, cho nên đã cảm động đến trời đất, vì thế trong lúc nguy hiểm bị xô vào giếng thì Tiên Thán được chư thiên ở dưới miệng giếng đỡ lấy khiến cho bình an vô sự, thân thể của ông không bị tổn thương tí nào. Tiên Thán được chư thiên cứu sống, nhìn thấy dưới vách giếng có một đường hầm nhỏ, liền theo đó trèo lên miệng giếng. Sau đó trải qua bảy ngày trèo non lội suối, cuối cùng trở về đến đất nước của mình. Nhà vua nhìn thấy Tiên Thán hỏi:

- Cùng ra biển tìm châu ngọc, những người thương nhân kia đều đầy túi trở về còn ngươi tại sao lại không kiếm được món gì?

Tiên Thán than rằng:

- Tôi không có phát hiện được vật báu nên chỉ đành tay không trở về.

Quốc vương nghe rồi khởi lên lòng nghi ngờ nghĩ thầm: “Đây ắt phải có duyên cớ gì”. Nhà vua bèn ra lệnh tìm những người thương nhân đó vào triều hỏi:

- Báu vật của Tiên Thán đi đâu rồi? Các ngươi phải thành thật thú tội mới hy vọng sống còn, nếu dối gạt chỉ có con đường chết.

Đoàn thương nhân sợ hãi, bèn khai ra sự thật. Sau khi biết được chân tướng, nhà vua vô cùng giận dữ, bèn ra lệnh nhốt tất cả vào trong ngục, chuẩn bị chém đầu. Tiên Thán nghe tin, lập tức chạy vào hoàng cung, khấu đầu xin nhà vua tha tội cho đám thương nhân. Qua nhiều lần khẩn cầu của Tiên Thán, nhà vua mới tha tội cho đám thương nhân, và ra lệnh phải trả lại báu vật cho Tiên Thán. Đoàn thương nhân vô cùng cám ơn Tiên Thán đã không nhớ tội của mình mà còn xin vua tha thứ, nên chọn báu vật quý nhất của mình tặng cho Tiên Thán. Tiên Thán chỉ nhận một nửa, đoàn thương nhân nói:

- Không có ông, tính mạng của chúng tôi không thể bảo toàn, xin ông thu nhận hết những lễ vật của chúng tôi.

Tiên Thán bèn thu nhận những báu vật này, dùng nó trả xong nợ cho nhà vua, phần còn dư thì bố thí cho dân chúng.

Dân chúng nghe được chuyện này đều hết lòng khen ngợi, kính phục phẩm đức cao thượng Tiên Thán.

 

(Tiên Thán lị gia bổn sanh – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Thế sự vô thường, sanh mạng không thể vĩnh viễn còn hoài, tài sản không biết lúc nào lìa bỏ chúng ta ra đi; chỉ có làm nhiều việc thiện lành, tích chứa công đức mới thật sự có ích lợi. Người ta thường nói: làm một việc tốt thì dễ dàng, khó là suốt một cuộc đời làm việc tốt, nhưng mà Tiên Thán đã làm được như vậy. Và cũng chính những hành vi cử chỉ thiện lành của Tiên Thán đã khiến cho ông ta nguy hiểm hoá thành bình an. Càng khó làm hơn nữa là đối với những kẻ xấu có tâm ám muội hại ông, ông cũng không ghi nhớ những điều xấu của họ mà khoan dung đối đãi với họ, cuối cùng đã cảm hoá được họ.

 

Cá trăm đầu

 

Ngày nọ, Đức Phật và các đệ tử muốn đến thành Tỳ Xá Ly, khi đi ngang bờ sông Lê Việt, thì thấy có 500 ngư dân, 500 người chăn trâu ở đó. Những người ngư dân có ba loại lưới bắt cá lớn nhỏ không giống nhau: lưới nhỏ thì 200 người kéo, lưới vừa thì 300 người kéo, lưới lớn thì 500 người kéo. Lúc đó, Đức Phật và các đệ tử đang ngồi nghỉ ngơi cách bờ sông không xa. Lúc đó, một chiếc thuyền bắt được con cá lớn nhưng mà dùng cách nào cũng không kéo lên nỗi. Cuối cùng 500 người ngư dân gọi 500 người chăn trâu cùng với sức kéo của các con thú, đem hết sức mới kéo được con cá lên bờ. Khi nhìn thấy con cá vừa được kéo lên, mọi người đều giật mình, lông tóc dựng đứng, vì trên mình con cá này có đủ 100 cái đầu: Đầu lừa, đầu ngựa, lạc đà, cọp, sói, khỉ, chồn, heo, … có nhiều thứ đầu còn không biết tên gọi và cũng chưa từng thấy bao giờ. Mọi người đều cảm thấy rất kỳ lạ liền bèn xúm lại xem. Đức Phật bảo A Nan :

- Ngươi đến đó xem có việc gì xảy ra vậy?

A Nan đi xem, biết là con cá trăm đầu, bèn trở về bạch Phật. Đức Phật bèn cùng với chúng đệ tử đi đến gần bên mình cá, dùng lời nói ôn hoà hỏi ba lần:

- Ngươi có phải là A Tỳ Lê không ?

Cá trả lời:

- Thưa phải.

Đức Phật lại hỏi:

- Người dạy dỗ ngươi khi xưa nay ở đâu?

- Bà ta nay ở địa ngục, khổ không kể xiết.

Nghe thấy cá trăm đầu biết nói chuyện, mọi người càng thêm nghi hoặc, vì thế A Nan cung kính đến trước Phật bạch hỏi rằng :

- Bạch Đức Thế Tôn! Kính xin Ngài khai thị cho chúng con biết được nhân duyên quả báo của cá trăm đầu.

Thì ra, thời Đức Phật Ca Diếp, có người con trai của vị Bà la môn tên là Ca Tỳ Lê. Ca Tỳ Lê thông minh tài trí, lại hiếu học, từ nhỏ đến lớn, bất luận ở trong đoàn thể nào chàng đều biểu hiện vô cùng ưu tú, xuất sắc, không bao giờ để cho cha mẹ thất vọng vì mình.

Sau khi người cha qua đời, thì người mẹ già càng đặt thêm niềm kỳ vọng vào Ca Tỳ Lê. Một ngày nọ, bà hỏi Ca Tỳ Lê:

- Con à! Con thông minh như vậy, e rằng trong thiên hạ không có ai hơn con.

Ca Tỳ Lê thành thật trả lời:

- Thưa mẹ, Đức Phật Ca Diếp trí huệ rộng lớn, con thật không bằng Ngài. Bất cứ ai có nghi vấn đến thỉnh giáo với Đức Phật, đều được câu trả lời viên mãn. Nhưng những vấn đề này, con lại không trả lời được.

Người mẹ nói:

- Vậy thì tại sao con không đi học Phật pháp? Như thế con sẽ không thua ai đâu.

Bản tính vốn thuần hậu, Ca Tỳ Lê nghe lời mẹ xuất gia vào Tăng đoàn, bắt đầu nghiên cứu Phật pháp. Với sự thông minh tài trí của mình, Ca Tỳ Lê trong thời gian ngắn đã thông suốt kinh điển, giáo lý. Mẹ của chàng thường đến thăm hỏi. Cách một thời gian, bà thường đem lòng hy vọng hỏi thăm:

- Con à, nay con học như thế nào rồi? Có thể thắng hơn Đức Phật Ca Diếp chưa?

Nhưng mỗi lần như vậy, Ca Tỳ Lê lại lắc đầu, khiến cho lòng bà nặng trĩu như rơi vào đấy giếng.

Cuối cùng, mẹ của Ca Tỳ Lê không nhịn được bảo với người con rằng:

- Mẹ dạy con cách này, lần sau nếu có người thuyết pháp hơn con, con không tiếc lời mắng thẳng vào người ấy : “Ngươi thật là quá ngu si, không có kiến thức. Đồ ngu hơn bò, đồ ngu hơn trâu, đồ ngu hơn heo….” Như thế, không ai dám nói nữa, hoặc không dám chê cười con.

Ca Tỳ Lê tuy biết sân si mắng người là không đúng. Nhưng nghĩ đến mình từ xưa đến nay cái gì cũng giỏi nhất, nay dù có đem hết sức nghiên cứu học tập kinh điển cũng không thể đuổi kịp Đức Phật Ca Diếp, nên cảm thấy nóng ruột. Vì thế chàng bắt đầu dùng phương pháp mắng chửi người để che đậy khuyết điểm của mình.

Cứ như thế, vốn là người hiền lành, đôn hậu, Ca Tỳ Lê đã trở nên càng ngày càng kiêu ngạo, càng ngày càng chửi người không cần lựa lời, khi nghĩ ra được một loài súc sinh nào thì dùng đó để mắng chửi như: đầu heo, đầu chó, đầu lừa, mặt ngựa, mặt khỉ… để mắng chửi, làm nhục hết vị Thánh A la hán này đến vị A la hán kia.

- Với việc ác, tội lỗi nặng nề như thế, Ca Tỳ Lê bị đoạ vào trong loài cá, trên mình mọc ra trăm đầu súc sinh để trả quả báo mắng chửi các vị Thánh nhân.

Trong lời nói của Đức Phật chan chứa vô hạn lòng từ bi thương xót, giáo hoá mọi người đang đứng nghe pháp.

 

(Phẩm A Tỳ Lê 100 đầu – kinh Hiền Ngu)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Những hành vi của thân, của khẩu, của ý, không thể không thận trọng. Thông minh tài trí có thể đem lại sự vinh quang nhất thời, nhưng lại không có phương cách khắc phục những tư tưởng ác xấu đang xâm chiếm tâm niệm của ta. Cứ mãi tranh cường háo thắng, tìm mọi cách vượt qua người, chỉ khiến cho mình càng hãm vào hố sâu tội ác. Giống như cá lạ A Tỳ Lê vì tạo ác nghiệp mà sanh làm loài cá có trăm đầu thú. Trong chúng ta có một số người cũng như vậy, chỉ vì lợi ích nhỏ nhất thời mà quên đi đạo lý làm người, chỉ vì một chút tổn thất nhỏ mà thất vọng oán than, thì phạm vào điều đại kỵ.

 

Bần nữ thí đèn

 

Nan Đà là một cô gái nghèo rớt mồng tơi, cuộc sống đói nghèo bức bách. Mạng vận đói nghèo khiến cô phải ăn xin qua ngày, nhưng mà một nhân duyên đã làm thay đổi đời cô.

Một ngày nọ, trong cơn gió lạnh thấu buốt ruột da, cô xin được một đồng tiền, đó là hy vọng duy nhất để nuôi mạng sống của cô trong ngày. Nhưng mà tin tức đốt đèn cúng Phật đã làm chấn động trái tim của cô. Nhìn thấy vua quan nhân dân thành Xá Vệ thành tâm dùng đủ các thứ dầu thơm quý, những ngọn đèn tinh chế thắp lên những ngọn đèn sáng cúng dường Đức Phật, cô gái nghèo sanh lòng tán thán:

- Đức Phật trụ thế thật là cơ duyên hy hữu!

Rồi cô lại nghĩ, thật là xấu hổ! Vì quá khứ không gieo trồng thiện căn phước đức, kiếp này mới bần cùng khốn khổ như vậy, dù muốn cúng dường Đức Phật mà cũng không có gì để cúng. Cô nắm chặt đồng xu trong tay, biết rằng nếu không có đồng xu này đêm nay nhất định sẽ đói, nhưng mà tâm nguyện muốn cúng đèn cho Phật càng tha thiết hơn.

Một đồng tiền ít ỏi chỉ có thể mua được một ít dầu. Người bán dầu nhìn thấy cô đói không còn sức lực, nhưng lại tha thiết mua dầu cúng Phật mà chịu nhịn đói nhịn khát, nên vô cùng cảm động, cho cô thêm chút dầu, muốn giúp đỡ cho cô hoàn thành tâm nguyện.

Khi đêm đến, trên từ vua quan quý tộc cho đến người dân, ai nấy đều chí thành thắp đèn cúng Phật. Cô Nan Đà cũng có mặt trong đám người, cung kính thắp lên ngọn đèn của mình. Quỳ trước Phật, cô nghĩ đến cảnh bần cùng khốn khổ của mình, lại càng nghĩ đến chúng sanh đang luân chuyển trong đêm trường tăm tối, nên phát nguyện:

- Nguyện ánh sáng này chiếu khắp mười phương, khiến cho những loài hữu tình đều được lìa khỏi biển khổ sanh tử, được vô thượng an lạc.

Trời sắp sáng, việc bất khả tư nghì phát sanh! Tất cả những ngọn đèn đều tắt, hoặc bị Ngài Mục Kiền Liên thổi tắt. Duy chỉ có ngọn đèn của cô gái nghèo Nan Đà dù Ngài Mục Kiền Liên có dùng thần thông đến đâu đi nữa cũng không thể thổi tắt được. Ngài Mục Kiền Liên vô cùng kinh ngạc, ai đã thắp lên ngọn đèn này mà bậc có thần thông trí tuệ như Ngài cũng không thể thổi tắt?

Đức Phật chỉ vào ngọn đèn của cô gái nghèo, mỉm cười giải đáp mối nghi hoặc của Ngài Mục Kiền Liên:

- Mục Liên! Người cúng dường ngọn đèn này đã phát đại nguyện cứu độ chúng sanh. Dù có dùng nước bốn biển tưới cũng không thể nào dập tắt. Đây là ngọn đèn đã dùng đại nguyện chí thành thắp lên, do vì lòng chí thành khẩn thiết cho nên ánh sáng ngọn đèn vô tận.

Lúc đó, Nan Đà lại đến Tinh xá, thành tâm cung kính đảnh lễ Đức Phật. Đức Phật biết cô gái phát vô thượng đạo tâm, bèn thuyết pháp cho cô nghe và thọ ký:

- Hai mươi kiếp sau, ngươi sẽ thành Phật, rộng độ chúng sanh hiệu là Đăng Quang, đầy đủ 10 hiệu.

Cô cảm động, những giọt nước mắt từ từ rơi xuống, nghĩ đến việc kiếp này gặp được Đức Phật thật là đầy đủ phước duyên, cô lập tức quỳ xuống chắp tay xin Đức Phật cho phép xuất gia. Sau đó cô tinh tấn tu hành, trở thành một vị Tỳ kheo ni đức hạnh, được mọi người kính trọng.

 

(Phẩm Bần nữ Nan Đà – Kinh Hiền Ngu nhân duyên kinh )

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Nếu cuộc sống của bạn đầy đủ an lạc, có lẽ khó mà tưởng tượng tấm lòng kiên định cúng dường của cô gái nghèo, nếu bạn bất luận làm việc gì cũng đều chỉ nghĩ đến mình, thì không thể tưởng tượng được tấm lòng phát nguyện cứu độ chúng sanh của cô gái nghèo Nan Đà. Dù trong cuộc sống gặp những lúc gian khổ nghèo khó, Nan Đà vẫn mong muốn cống hiến cho mọi người, chỉ vì tin tưởng người quan trọng hơn mình. Đây là tấm lòng xem trọng chúng sanh, cũng là tấm lòng thiện lành, chí công vô tư.

 

Bần nữ thí đậu

 

Khi Đức Phật đang truyền bá Phật pháp tại nước nọ, quốc vương nước này thiết lễ cúng dường cho Đức Phật và chúng Tỳ kheo. Trong thành có một bà già rất nghèo, ngày ngày đi xin ăn để nuôi sống. Bà nghe nói nhà vua đang thiết lễ cúng dường cho Đức Phật và chúng Tỳ kheo, tâm rất hoan hỷ vui mừng. Bà muốn cúng dường chút gì đó cho Đức Phật và chúng Tỳ kheo, nhưng trong nhà không có một vật gì, chỉ đành than thở không thôi.

Lúc đó, bà nhìn thấy một chút đậu nành do người khác bố thí cho bà, trong tâm loé ra tia sáng. Bà vội nắm lấy nhúm đậu này chạy đến hoàng cung, để cúng dường Đức Phật nhúm đậu này, nhưng người canh cửa nhìn thấy bà già áo quần lam lũ cầm trong tay có chút đậu mà muốn vào hoàng cung cúng dường Đức Phật, cảm thấy buồn cười bèn nhất quyết không cho bà vào.

Đức Phật thần thông quảng đại đang ở trong hoàng cung biết được việc này, Ngài vận dụng thần lực lấy nắm đậu trong tay của bà lão rồi để trong các món ăn của vua. Khi ăn đụng phải hạt đậu trong món ăn, nhà vua vô cùng tức giận, bèn kêu đầu bếp đến để trị tội.

Đức Phật khuyên rằng:

- Đại vương! Đây không phải là lỗi của đầu bếp, những hạt đậu nành này là của bà già đang đứng ngoài cửa hoàng cung cúng dường.

Vua nghe nói không vui, Đức Phật nói tiếp:

- Đây là tấm lòng chân thành của bà lão, tuy là nắm đậu nhỏ, nhưng mà có thể giúp cho quốc vương cúng dường thức ăn được kết quả nhiều hơn, cho nên trong mỗi món ăn đều có đậu của bà.

Vua nghe nói không đồng ý, thưa rằng:

- Có chút đậu mà đáng cái gì? Làm sao có thể so sánh được với những món ăn cao lương mỹ vị của trẫm cúng dường?

- Bà lão nghèo cúng dường đậu tuy ít ỏi, nhưng phước đức sẽ được nhiều hơn đại vương.

Nhà vua không hiểu nên thỉnh giáo Đức Phật :

- Chẳng lẽ trẫm cúng dường đồ ăn thức uống phong phú như vậy mà công đức không bằng nắm đậu nhỏ của bà lão hay sao?

Đức Phật giải thích:

- Tuy bà lão cúng dường ít, nhưng bà đã đem tất cả những gì bà có để cúng dường. Đại vương cúng dường tuy nhiều nhưng đều lấy từ nhân dân, còn đối với mình thì không mất mát món gì. Nên nói bà lão nghèo cúng dường nhiều, đại vương cúng dường ít, cho nên phước đức mà bà lão được sẽ nhiều hơn đại vương.

Nhà vua nghe nói thật sự tỉnh ngộ, bèn sai người đi mời bà lão vào trong cung.

 

(Chúng kinh soạn tạp ví dụ quyển thượng)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Phụng hiến không quý ở chỗ nhiều hay ít mà quý ở chỗ thành tâm, thành ý, theo khả năng mình mà làm là đã đầy đủ rồi. Khi bạn nghèo, bạn có thể lấy sức mình đi làm những điều thiện lành, ví dụ: quét rác, tưới cây, dọn dẹp, đó cũng là một loại bố thí cúng dường. Có người vì lợi ích của mọi người, dâng tặng những gì mình có, đó là sự phụng hiến chân thành nhất. Cho nên người ta thường nói: Xem một người đối với bạn tốt hay không, không phải ở chỗ người ấy cho bạn bao nhiêu mà ở chỗ người ấy có tặng cho bạn hết những gì người ấy có không.

 

Ni Đề đắc đạo

 

Nước Xá Vệ có một người tiện dân tên là Ni Đề, vì chủng tánh thấp hèn, chỉ có thể làm công việc dọn dẹp phân uế để sinh sống. Hôm nay Đức Phật và A Nan cùng vào trong thành để độ Ni Đề, đem về Tinh xá Kỳ Hoàn. Tại đây, Ni Đề nghe Đức Phật khai thị, tâm khai, ý giải, chứng được sơ quả, vì thế khẩn thiết thỉnh cầu Đức Phật cho phép mình xuất gia. Đức Phật bảo:

- Thiện lai Tỳ kheo!

Ni Đề râu tóc lập tức rụng hết, cà sa trên mình, hiện Tăng tướng thanh tịnh, chính thức trở thành đệ tử của Đức Phật.

Người dân trong nước Xá Vệ nghe nói người đổ phân Ni Đề là một giai cấp thấp hèn được xuất gia, sinh tâm khinh miệt, khắp đường phố nghị luận xôn xao. Mọi người đều nói:

- Người có giai cấp hèn hạ như thế làm sao xứng đáng cho chúng ta lễ bái, cúng dường? Giả như Ni Đề ôm bát vào thành khất thực, nhà chúng ta đều bị ông ấy làm cho dơ dáy.

Nhà vua biết được việc này, trong lòng vừa không hoan hỷ vừa nghi hoặc, bèn ngồi xe báu, đem theo đoàn tuỳ tùng đến Tinh xá Kỳ Hoàn, xin Thế Tôn giải lòng nghi hoặc của mình.

Đoàn người ngựa đến trước cổng Tinh xá bèn ngừng lại ngơi nghỉ đôi phút, lúc này tỳ kheo Ni Đề đang ngồi trên tảng đá lớn may vá áo, nhà vua đến trước mặt Ni Đề nói:

- Trẫm muốn gặp Đức Phật, phiền tôn giả vào bạch giúp.

Ni Đề lập tức đi vào trong tảng đá, xuất hiện trước mặt Phật bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn ! Vua Ba La Nặc đang ở ngoài cổng Tinh xá, muốn đến thỉnh pháp với Đức Phật.

Đức Phật bèn bảo với Tỳ kheo Ni Đề rằng:

- Ngươi sử dụng thần thông như vừa rồi, mời nhà vua vào đây.

Tỳ kheo Ni Đề lập tức lại đi vào trong tảng đá và hiện thân trước mặt đức vua, giống như nước tự do ra vào các kẻ hở không mảy may chướng ngại. Thầy thưa với nhà vua rằng:

- Đã giúp đại vương thông báo rồi, thỉnh đại vương vào trong.

Nhà vua đến trước Đức Phật, đảnh lễ là nhiễu quanh bên phải ba vòng, cung kính ngồi một bên, thưa với Thế Tôn điều nghi hoặc của mình :

- Vị tôn giả giúp trẫm bẩm báo với Đức Phật có thần thông lớn, người có thể toàn thân xuyên ngang tảng đá, giống như nước chảy vậy, lại có thể tự tại từ trong tảng đá xuất hiện, không biết vị tôn giả này xưng hô như thế nào?

Đức Phật bảo với vua Ba Tư Nặc rằng:

- Vị Tỳ kheo có thần thông quảng đại này tức là người đổ phân Ni Đề mà hiện nay dân trong nước Xá Vệ đang nghị luận xôn xao. Ta đã hoá độ cho Ni Đề xuất gia và chứng quả A la hán.

Vua Ba Tư Nặc lại thưa hỏi Đức Phật :

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Tôn giả Ni Đề, thời quá khứ đã trồng nhân gì, mà kiếp này bị quả báo bần cùng hạ tiện? Trong quá khứ gieo tạo nhân gì, mà kiếp này gặp được Phật hoá độ thành tựu Thánh quả. Kính mong Đức Thế Tôn từ bi khai thị.

- Sau khi Đức Phật Ca Diếp diệt độ, có mười vạn Tỳ kheo Tăng cùng ở trong một tòng lâm. Có một vị Tỳ kheo đảm nhiệm việc chấp sự, vị này thường đau bụng tháo dạ, nhưng thầy không ra nhà vệ sinh bên ngoài mà bài tiết trong những khí cụ bằng vàng, bằng bạc, dựa vào quyền thế, ra lệnh cho đệ tử xử lý những vật bài tiết này. Vì thầy ở trong Tăng đoàn đảm nhiệm chức vụ quan trọng, nên tự cao tự đại buông thả cho những tập khí của mình. Hễ có chút không khoẻ bèn làm biếng giải đãi, sai vị đệ tử đổ phân cho mình. Nhưng mà người đệ tử mà ông sai đó là bậc Thánh nhân đã chứng đắc Sơ quả. Vì duyên cớ này, 500 đời đều sinh làm người hạ tiện, lại là người đổ phân nuôi sống bản thân. Cho đến đời này vẫn là kẻ tiện dân đổ phân cho người. Nhưng do vì Ni Đề đã từng xuất gia, giữ gìn giới luật, cho nên đời này nhân duyên thành thục, được gặp Như Lai, được nghe chánh pháp, phiền não đoạn tận, chứng quả A la hán. Đại vương nên biết, người chấp sự thường sai bậc thành nhân đổ phân cho mình là tiền thân của Ni Đề.

 

(Phẩm Ni Đề độ duyên – kinh Hiền Ngu)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tiền thân của Ni Đề cống cao ngã mạng, thường hay sai khiến người, phải bị quả báo 500 năm làm nghề đổ phân. Cũng may đời trước xuất gia tu hành, nghiêm trì giới luật, kiếp này mới được Đức Phật hoá độ, nghe pháp chứng quả. Ở thế gian, những người hoặc có quyền thế, hoặc có tiền của, hoặc có một chút tài hoa và năng lực thường hay có lòng tự cao tự đại, kiêu căng ngạo mạn, tập thành những thói hư tật xấu, rồi theo quyền lực, tiền của, năng lực tăng cao thì những thói hư tật xấu đó càng nhiều. Giống như Ni Đề kiếp trước sai bảo bậc Thánh đổ phân cho mình mà cuối cùng phải mắc vào quả báo 500 kiếp làm nghề đổ phân bần tiện nghèo hèn. Vì thế khuyên những người có những tật xấu này nên lấy đó làm điều răn, bỏ đi những tật tánh không tốt để tránh làm khổ cho mình.

 

Nghiệp ác gây hoạ

 

Vua A Dục là một vị vua nổi tiếng hiền minh nhất ở Ấn Độ. Vua có một vị thái tử tên là Câu Na La rất tuấn tú, vì thế nhiều cô gái rất thích thái tử. Trong hoàng cung có một vương phi trẻ tên là Đế Thất La Xoa, bà nhìn thấy thái tử đem lòng yêu mến, thường tìm cơ hội thân cận thái tử.

Một ngày nọ, vương phi Đế Thất La Xoa gặp cơ hội bèn bày tỏ cho thái tử Câu Na La biết tình yêu của bà đối với Thái tử và hy vọng Thái tử tiếp nhận tình yêu của bà. Nhưng thái tử Câu Na La là người vốn tin thờ Phật pháp, biết bà là vợ của cha mình, cũng giống như mẹ mình vậy. Thái tử không thể nào làm những việc điên đảo luân lý, bại hoại cang thường như vậy. Cho nên khi vương phi bày tỏ tình yêu, thái tử không chút động tâm. Thái tử chẳng những không chấp nhận tình cảm của bà mà còn khuyên không nên có tư tưởng như vậy. Vị vương phi si tình này xấu hổ thành tức giận, sanh lòng oán hận. Bà xúi giục người ác móc đôi mắt và giết thái tử Câu Na La.

Mọi người biết được tin này đều cảm thấy lạ kỳ. Vị thái tử hiền lành đức độ như thế, tại sao lại gặp quả báo bất hạnh như vậy? Vì thế mọi người mới đi thưa hỏi một vị Tỳ kheo có thần thông, vị này trả lời:

- Thuở xưa, tại nước Ba La Nại có một người thợ săn. Năm nọ vào mùa đông, người này vào rừng săn bắn, phát hiện có rất nhiều nai ở trong một hang động, vì thế mỗi ngày đến đây bắt một con nai đem về. Trước móc đôi mắt của nai, sau đó mới giết chết. Như thế, trải qua thời gian một năm, đám nai đáng thương này đều bị ông giết sạch. Do vì sự nhân duyên sát sanh như trên mà suốt đời ông phải chịu quả báo trước là bị móc mắt, sau bị giết chết. Nên ngày nay, thái tử Câu Na La chính là người thợ săn kiếp trước.

Tôn Giả nói đến đây, thì mọi người lại nghi hoặc mới hỏi:

- Đã là người thợ săn ác độc như vậy, tại sao lại được sanh vào nhà của người tôn quý làm thái tử, và hình mạo đoan chánh trang nghiêm, được nhiều người thương mến.

Tôn Giả giải thích:

- Đó không có gì lạ, vì thái tử có lần làm việc thiện. Sau khi Đức Phật Ca La Tôn Đại tịch diệt, có một vị vua tên là Đoan Nghiêm, Ngài mời thợ đến điêu khắc Thánh tượng của đức Như Lai, và xây dựng một bảo tháp cúng dường, nhưng sau đó có vị vua hôn quân không tin phụng Tam bảo, lại huỷ hoại tượng Phật. Lúc đó trong nước có một người thợ điêu khắc, vô cùng thương xót hành động vô đạo của nhà vua, vì thế phát đại nguyện tu bổ tượng Phật trang nghiêm. Người thợ điêu khắc đó tức là tiền sanh kiếp trước của thái tử Câu Na La, do vì công đức tu bổ tượng Phật cho nên kiếp này được sanh vào nhà vua chúa, nhưng vì do nghiệp sát chưa hết nên phải chịu quả báo.

 

(Câu Na La bổn duyên – Truyện vua A Dục)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Câu chuyện này, đối với người hiện đại đã chịu sự ảnh hưởng của nền giáo dục vô thần luận thì dường như có chút hư huyễn, nhưng ý nghĩa của nó rất đáng học tập: có nhân như vậy thì sẽ chịu quả báo như vậy, có câu “thường làm những điều bất nghĩa thì sẽ tự hại mình”, chính là ý nghĩa này vậy. Tự mình tạo nghiệp ác, tự mình phải lãnh thọ, không ai thay thế được.

 

Ác khẩu hại mình

 

Ngày xưa, có một ông trưởng giả rất giàu có, tiền muôn bạc triệu, cuộc sống vô cùng khoái lạc. Ông có một người vợ vừa xinh đẹp, vừa hiền đức, nên khiến cho cuộc sống hạnh phúc của ông càng hạnh phúc, an lạc hơn. Nhưng sự hạnh phúc của ông chỉ là ngắn ngủi tạm thời, không bao lâu lại đi vào vực sâu đau thương lo buồn, không ai còn nhìn thấy ông với vẻ mặt hạnh phúc an vui như xưa nữa. Tại sao vậy? Ông bà kết hôn đã lâu năm mới sinh được một đứa con trai, nhưng thật là bất hạnh, con của ông mới bập bẹ tập nói, thì mắc bệnh nặng. Thầy thuốc chẩn đoán nói đó là những mụt nhọt độc hại mọc trên mình đứa bé. Mụt nhọt khiến cho đứa con rên la kêu khóc suốt ngày. Tuy đã từng mời rất nhiều danh y, nhưng không có cách này trị lành, vì thế ông trưởng giả suốt ngày nhăn nhó ủ dột buồn rầu.

Tội nghiệp đứa bé, rất nhiều thầy thuốc đã bó tay, nó chỉ còn biết ngày ngày rên la, khóc gào. Tiếng khóc gào rên rỉ của nó làm náo động tới làng xóm, nên người ta đặt tên cho nó là thằng "Khóc Gào". Thời gian trôi qua, Khóc Gào đã lớn khôn, nhưng bệnh tật trên người thì vẫn chẳng hề bớt chút nào, vẫn là ngày đêm rên la đau nhức. Gần nhà của họ có một ông hàng xóm già, nghe tiếng kêu rên la đau nhức khổ sở, bèn sanh lòng bất nhẫn, đến nhà Khóc Gào an ủi, nói:

- Tôi nghe nhiều người xưng tán rằng, ở Tinh xá Kỳ Viên có vị đại y vương, phàm là chúng ta có thân bệnh hoặc là tâm bệnh, Ngài đều có thể trị lành. Ngài có diệu dược thần thánh, bất luận là bệnh nan y khó trị như thế nào đều có thể trị lành, tại sao con không đi đến đó thành tâm xin người chữa bệnh cho mình?

Khóc Gào nghe ông già hàng xóm nói như vậy, rất vui mừng, bèn đến Tinh xá Kỳ Viên cầu gặp Đức Phật. Đức Phật cũng hoan hỷ thuyết pháp cho anh ta nghe làm như thế nào để tiêu trừ những khổ đau.

Khóc Gào sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp bèn thành tâm sám hối tội lỗi. Lúc đó, những mụn nhọt trên thân đã hành hạ mình mười mấy năm lập tức lành lặn, sự đau khổ hoàn toàn tiêu trừ, tâm sinh lòng thành kính hoan hỷ.

Sau đó, Khóc Gào xin Đức Phật cho phép xuất gia làm Tỳ kheo. Thầy tinh tấn tu hành, không bao lâu đắc quả A La Hán.

Các vị Tỳ kheo cảm thấy lạ kỳ, bèn thưa hỏi Đức Phật, Khóc Gào do nhân duyên gì mà bị quả báo mụt nhọt trên mình, và do duyên lành gì mà đắc được Thánh quả.

Đức Phật bèn kể câu chuyện quá khứ:

- Thời quá khứ rất xa xưa, tại nước Ba La Nại có hai ông nhà giàu là ông Giáp và ông Ất. Vì họ có chút đụng chạm xô xát nên hàng ngày tranh chấp với nhau. Ông Giáp liền đem nhiều châu báu dâng tặng cho nhà vua. Nhà vua được ông Giáp cống hiến lễ vật, cho nên đối với ông ta đặc biệt thương mến quý trọng. Vì thế ông Giáp trước mặt nhà vua phê bình ông Ất rằng:

- Ông Ất kia vô cùng hiểm ác, thường âm mưu dùng kế hại tôi, mong đại vương nghiêm trị kẻ ác, bảo hộ người dân lương thiện.

Nhà vua bèn sai người bắt ông Ất đem giam vào ngục, dùng hình phạt tra tấn tàn nhẫn. Ông Ất bị tra khảo toàn thân đều là thương tích, chịu đủ mọi thứ hành hạ thống khổ, cuối cùng do người nhà bỏ tiền chuộc tội mới được tha về nhà.

Sau khi trở về nhà, Ông Ất thấy rõ tài sản thật là vật hại người, thân là nguồn gốc của khổ đau. Nếu không có tiền thì sẽ không cùng ông Giáp sanh ra tranh cãi gây cấn. Nếu không có thân này, thì cũng sẽ không gặp phải sự thống khổ của thảm hình tra tấn. Vì thế, Ông Ất bèn lập chí vào núi tu hành, sau đắc quả Phật Bích Chi. Lúc đó Phật Bích Chi phát tâm đại từ bi, sợ ông Giáp hãm hại người hiền, đời sau sẽ gặp quả báo khổ đau, bèn đi đến nhà ông Giáp hiện các thứ thần thông biến hoá. Ông Giáp nhìn thấy cảnh tượng bất khả tư nghì như thế bèn sanh lòng tín ngưỡng và cung thỉnh Đức Phật Bích Chi vào nhà, cúng dường các thứ phẩm thực ngon ngọt và sám hối những lỗi xưa của mình, cúi mong Đức Phật Bích Chi tha thứ.

Đức Phật nói đến đây, ngừng một chút lại nói tiếp:

- Các thầy nên biết, thời quá khứ ông Giáp ở trước mặt nhà vua nói lời sàm tấu hãm hại người lành, chính là Tỳ kheo Khóc Gào bệnh khổ ngày nay. Sau đó do được Đức Phật Bích Chi giáo hoá, sám hối tội xưa, tâm thành quy y Tam Bảo, do công đức đó mà hôm nay được Đức Phật thuyết pháp cứu độ, tu hành mau đắc quả A la hán.

 

(Trưởng giả sanh ghẻ – Soạn tập bách duyên kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Vì một chút việc nhỏ mà dùng lời nói ác, cùng nhau kết oán hận, từ đó trở thành kẻ thù trong cuộc sống hiện thực không phải là ít; vì oán hận mà mượn cơ hội tìm cách trả thù cũng chẳng phải là không có. Sau khi đọc xong câu chuyện này, không biết những người đó có cảm xúc gì chăng? Chỉ là vì tâm khí nóng giận một thời mà làm những việc hại mình hại người, thật là cái mình được không bằng cái mình đã mất.

 

Oan oan tương báo

 

Xưa có một người lấy 2 bà vợ, người vợ lớn không có con, người vợ nhỏ thì sanh ra đứa con trai kháu khỉnh dễ thương, dung mạo đoan trang.

Người chồng rất thương yêu đứa con trai, người vợ lớn vì thế sanh lòng đố kỵ, cứ mãi tìm cách hại đứa con trai của bà vợ nhỏ. Khi đứa con được một tuổi, bà vợ lớn dùng kim đâm sâu vào đầu đứa trẻ. Đứa trẻ vì thế sanh bệnh, không bao lâu thì chết.

Người vợ nhỏ với những chứng cứ hiển thị, bắt đầu nghi ngờ người vợ lớn là hung thủ. Do vì mối đau đớn mất con, lại còn mối thù chưa báo nên cứ mãi uất ức, thương tâm, và không bao lâu người vợ nhỏ qua đời. Sau khi qua đời, với tâm niệm oán hận muốn báo thù cho con, nên đầu thai sanh làm con gái của người vợ lớn. Nhưng đứa con gái mới một tuổi thì chết yểu khiến người vợ lớn đau đớn buồn thương, cơm nước không muốn ăn. Sau đó người vợ nhỏ liên tiếp 7 lần đầu thai làm con của người vợ lớn. Lần cuối cùng đầu thai là một cô bé rất xinh đẹp, dung mạo đoan trang hơn những người trước, nhưng vào một buổi tối đang chuẩn bị xuất giá làm đám cưới vào lúc 14 tuổi lại bất hạnh qua đời. Bà vợ lớn suốt ngày than khóc, đem xác của đứa con gái bỏ vào trong quan tài không chịu đóng nắp, suốt ngày cứ nhìn xác con trong quan tài, không nói không năng cũng không chịu ăn cơm.

Hai mươi mấy ngày sau, có một vị A La Hán có nhân duyên với người vợ lớn, biết được câu chuyện như thế, muốn nhân cơ hội này hoá độ 2 người, vị A la hán đó bèn đến nhà người vợ lớn ôm bát khất thực. Vị A la hán nhìn thấy người vợ lớn tiều tuỵ, bèn hỏi rằng:

- Tại sao như vậy?

Người vợ lớn bèn thưa rằng:

- Tôi sanh bảy đứa con gái, đều vô cùng dễ thương, nhưng mà cứ lần lượt qua đời. Đứa con gái cuối cùng sắp lấy chồng cũng chết đi, thật khiến tôi đau khổ không còn muốn sống nữa.

Vị A la hán hỏi :

- Thế người vợ nhỏ vì sao mà chết vậy?

Người vợ lớn đang than khóc, nghe hỏi như vậy giật mình, muốn nói mà lại im, trong lòng hổ thẹn vạn phần. Thánh giả nói:

- Ngươi giết đứa con trai của người vợ nhỏ khiến bà ta đau buồn oán hận mà chết. Do đó, trước sau 7 lần đầu thai làm con gái của ngươi, trở thành oan gia của ngươi, ý định là muốn ngươi cũng bi thương, đau buồn mà chết. Ngươi có thể đi xem đứa con gái đã chết trong quan tài có còn đẹp như xưa chăng?

Người vợ lớn bèn đến chỗ quan tài xem xác đứa con gái, nhìn thấy thây chết đã rữa nát, hôi thúi khiến người không dám đến gần. Người vợ lớn cảm thấy xấu hổ vô cùng bèn lập tức đem con đi chôn và thỉnh vị A la hán truyền giới cho mình.

Hôm sau, y theo lời dạy của vị A la hán, người vợ lớn đến chùa thọ giới, nhưng mà người vợ nhỏ lại biến thành rắn độc chặn đường người vợ lớn muốn cắn chết bà ta. A la hán biết việc này bèn đi ra đón. Ngài nói với rắn:

- Ngươi vì muốn báo thù cho con mà đã đầu thai làm con gái của người vợ lớn đã 7 lần, hai bên kết oán thù, sau này cứ mãi làm hại lẫn nhau, sự độc hại luân chuyển vô cùng vô tận. Tuy như thế, nhưng tội này cũng có thể cứu độ được. Nhưng nay nếu ngươi ngăn cản người vợ lớn thọ giới thì quả báo rất lớn, sau này sẽ sanh vào địa ngục đời đời kiếp kiếp không có lối ra.

Rắn nghe lời khai thị của vị A la hán, biết được nhân duyên quả báo đời trước, những sự phiền não oán hận trong lòng tức thời tiêu tan, cúi đầu nằm trên mặt đất. Vị A la hán nhìn thấy cảnh này, bèn chúc nguyện cho 2 người:

- Hai ngươi do vì nghiệp duyên kiếp trước mà giết hại báo thù lẫn nhau, nay 2 bên nên gỡ bỏ oán thù, không nên có ý ác với nhau nữa; những tội lỗi đã tạo từ quá khứ, từ nay đều được tiêu trừ.

 

(Chúng kinh soạn tạp ví dụ quyển hạ)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tục ngữ nói “oan oan tương báo đời nào chấm dứt?” Hai người vợ vì oán thù mà đôi bên oan oan tương báo, phải chịu quả khổ đau không ngày nào ngừng. May có vị Thánh giả A la hán vì 2 người khai thị hoá giải thù xưa, mới có thể tiêu trừ ác duyên cho họ. Chúng ta nên học theo tâm từ rộng lớn của Bồ tát, không nhớ ác xưa, không ghét người ác. Dùng tâm lượng oán thân bình đẳng để hoá giải ác duyên, rộng kết thiện duyên.

 

Tự hái ác quả

 

Xưa kia, trong thành có vị tài chủ tên là Thủ Đà La, tuy tiền của rất nhiều, nhưng không có con. Vì thế Thủ Đà La nuôi một đứa con, xem nó như con ruột của mình, hết lòng nuôi nấng dạy dỗ. Nhưng được vài tháng thì vợ của Thủ Đà La mang thai, Thủ Đà La vô cùng mừng rỡ và sanh tâm bỏ đứa con nuôi. Ông bỏ đứa trẻ vào trong một cái bọc, nửa đêm đem quăng vào một cái hố. Đứa bé được người chăn dê phát hiện, đem về nhà, hàng ngày dùng sữa dê nuôi đứa bé, Thủ Đà La biết được, sanh lòng hổ thẹn, hối hận, nên đem đứa bé về nuôi dưỡng như xưa. Được mấy tháng thì người vợ sinh đứa con trai.

Hai đứa trẻ càng ngày càng lớn, Thủ Đà La mời thầy giáo đến nhà dạy 2 đứa con đọc sách, viết chữ, học tập các thứ tri thức và kỹ thuật.

Đứa con lớn tức đứa con nuôi bản tánh thông minh, học một biết mười, bất luận là môn học nào, vừa học liền biết. Còn đứa con nhỏ, tức là con ruột của Thủ Đà La chỉ là đứa trẻ khờ lại hay nghịch ngợm. Thủ Đà La nhìn thấy như vậy, sanh lòng đố kỵ, lại quyết tâm trừ đứa lớn để tránh hậu hoạ về sau.

Thủ Đà La bèn kêu đứa con lớn đi đưa thư cho người thợ rèn ở ngoài ngoại ô, vừa đi đến cửa thành gặp phải đứa em đang chơi bắn bi với đám trẻ. Đứa em càng chơi càng thua, nhìn thấy anh mình đi ngang bèn mừng rỡ kêu lên:

- Anh hai ! Anh đến đây hay quá, giúp cho em lấy lại vốn.

Người anh nói:

- Không được ! Cha bảo anh đi đưa thư cho người thợ rèn.

Người em giật lá thư nói:

- Anh giúp em bắn bi, em đưa thư giúp anh.

Người anh bằng lòng, người em bèn đem thư đến nhà người thợ rèn trao tận tay cho ông ta. Người thợ rèn mở thư ra xem, chỉ thấy trên thư viết rằng: “Từ khi đứa trẻ này đến nhà tôi, trong nhà bệnh tật liên miên, gia sản không ngừng tiêu hao, gia súc không ngừng chết chóc, tôi thỉnh thầy bói xem quẻ, thầy bói nói: ‘Tất cả đều là do đứa trẻ này gây ra’. Nhận được thư của tôi, ngươi lập tức quăng đứa bé này vào trong lò lửa thiêu chết”. Người thợ rèn xem thư xong, không nói một lời, quăng đứa em vào trong lò lửa.

Nhận được tin đứa con trai ruột của mình chết, Thủ Đà La ngất xỉu, lâm bệnh nặng. Ông ta càng thêm oán hận, càng quyết tâm tiêu trừ đứa trẻ này.

Vì thế Thủ Đà La bèn kêu người con nuôi đi quản lý trang trại của mình. Thủ Đà La có đứa em trai đang ở một trang trại gần đó. Đi ngang qua trang trại người em của Thủ Đà La, đứa con nuôi vào thăm. Em trai của Thủ Đà La bèn thiết yến tiệc, mừng đón người con nuôi. Ông có cô con gái xinh đẹp tuyệt trần, thông minh hơn người, nhìn thấy người anh họ, sanh lòng ái mộ, nhưng việc người anh đột nhiên đến thăm cha mình cảm thấy thắc mắc. Bèn đợi đến đêm chờ mọi người đều ngủ say, cô lén mở túi anh, lấy bức thư ra xem, chỉ thấy trên thư viết rằng : “Khi đứa trẻ này đến, lập tức trói lại, cột trên hòn đá lớn quăng xuống vực thẳm”.

Cô ta coi xong ngẩn người, nghĩ đến lúc người anh họ khôi ngô tuấn tú sẽ bị bỏ mạng vào trong vực thẳm không tránh khỏi sự lo sợ, cô ta muốn cứu người anh họ thoát khỏi tai hoạ này. Cuối cùng cô nghĩ ra một diệu kế, cô bắt chước chữ của bác mình, viết rằng: “Ta nay đã già, thời gian gần đây thường hay sanh bệnh, sức khoẻ càng ngày càng yếu. Em trai của ta có cô con gái, thông minh, hiền đức, đoan trang lễ mạo, ta muốn đem nó về làm dâu. Được bức thư này, lập tức chuẩn bị các thứ sính lễ, cần phải chọn những món tốt nhất, đẹp nhất, thân hành đến nhà người em làm lễ hỏi và nhanh chóng cử hành hôn lễ”. Sau đó, cô bỏ bức thư vào trong bì thư, dán kín lại và bỏ vào chỗ cũ. Sáng sớm hôm sau người anh từ biệt ông chú để lên đường, không bao lâu đến trang trại của Thủ Đà La. Tổng quản của trang trại xem thư của chủ xong, lập tức chiếu theo lời dặn trong thư, chuẩn bị rất nhiều vàng ngọc châu báu, tơ lụa vải vóc, tự mình đến nhà cô gái đính hôn cho đứa con nuôi của ông chủ. Cha của cô gái cũng vui vẻ đồng ý việc cưới hỏi này. Họ cử hành hôn lễ và mời bà con bè bạn đến dự. Hôn lễ vừa xong, vị tổng quản phái người báo cáo cho chủ nhân hay.

Thủ Đà La nghe nói đứa con nuôi kết hôn với con gái của người em, tức giận không nói được một lời, run rẩy tay chân, trợn mắt và tắt thở. Người con nuôi thấy cha chết, than khóc vô cùng thương tâm. Hai vợ chồng tổ chức tang lễ rất long trọng, chu đáo. Dân trong thành ai nấy đều khen hai người là con hiếu, dâu hiếu.

 

(Đồng tử bổn sanh – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Thủ Đà La muốn nhờ vào số mạng tốt của đứa con nuôi để khiến cho mình càng thêm giàu sang phú quý. Nhưng khi có đứa con ruột thì ác niệm lại nhiều lần khởi lên, cứ muốn trừ bỏ đứa con nuôi thông minh tuấn tú, kết quả mỗi lần như vậy lại khiến cho mình gặp phải mạng vận không may, cuối cùng còn mất cả tánh mệnh của mình nữa. Làm người không nên có ác niệm, nếu không sẽ khiến cho mình rơi vào vực sâu của vận mạng xấu ác.

 

Thái tử Ca Lan

 

Ngày xưa vua nước Ba La Nại, khi qua đời bèn truyền ngôi cho thái tử Ca Lan. Ca Lan cho rằng đức hạnh của mình không đủ bèn truyền ngôi cho em, còn mình thì dắt vợ vào trong rừng học đạo.

Khi đó nước láng giềng có người phạm tội, phép nước chặt hết tay chân, cắt tai mũi, để tội nhân trên một chiếc thuyền rách, cho xuôi theo dòng nước, mạng sống do trời quyết định. Kẻ tội nhân nuôi niềm hy vọng sống sót, trên thuyền lớn tiếng kêu cứu mạng.

Vào lúc đó, Thái tử Ca Lan đang tu luyện gần đó, nghe thấy ngoài rừng xa xa có tiếng vọng lại cứu mạng. Tiếng cầu cứu sao mà bi thương, tuyệt vọng như thế, Ngài sanh lòng bất nhẫn, bèn vội vàng đến bên bờ sông, nhìn thấy từ đằng xa có một chiếc thuyền trôi đến, bèn quyết tâm cứu người. Ngài không nghĩ đến thân mình nhảy vào trong dòng sông, nhanh chóng bơi đến chiếc thuyền, kéo thuyền người ấy đưa vào bờ, và cõng kẻ tội nhân đến chỗ tu hành của mình. Sau 4 năm trị liệu không mệt mỏi, vết thương của người tội nhân đã lành lặn. Nhưng không ngờ trong thời gian này, mỗi lần Ca Lan ra ngoài tu hành thì người vợ bèn câu thông với người tội nhân. Ngày qua tháng lại, họ xem Ca Lan như gai trong mắt, muốn tìm cơ hội giết hại Ca Lan.

Người vợ Ca Lan bảo với tội nhân rằng:

- Nếu anh giết được chồng em, em sẽ kết hôn với anh, chúng ta có thể sống chung với nhau.

Người tội phạm cảm thấy Ca Lan là ân nhân cứu mạng của mình, dù mình đã làm những việc có lỗi với người nhưng không nỡ nhẫn tâm giết hại thái tử. Nhưng vợ của Ca Lan vốn không nghe lời khuyên của người tội phạm, cứ theo yêu cầu người này tìm cách giết Ca Lan. Người tội phạm nói:

- Việc này không phải dễ dàng đâu. Em xem, tay chân anh không còn, ngay sự sinh hoạt hàng ngày đều phải nương vào em và thái tử, làm sao có thể cầm vũ khí giết người được ?

Vợ của Ca Lan suy đi nghĩ lại, cuối cùng nghĩ ra một cách. Khi Ca Lan trở về, vợ của chàng làm bộ đau đầu ghê gớm, nhăn mặt nhăn mày, đau khổ khôn cùng, nói với chồng rằng:

- Em chưa từng có chứng bệnh này, e rằng có việc gì đắc tội với thần núi, cho nên Ngài phạt em như vậy. Anh không phải ngày mai phải lên núi tu hành sao? Em cùng đi với anh, lên núi cầu nguyện, xin thần tha thứ, ban phước cho em.

Ca Lan cũng cảm thấy đó cũng là cách hay, nên đồng ý.

Hôm sau hai người lên núi. Ngọn núi này cao tít trời xanh, bốn bên tám phía đều là vách đá thẳng đứng, địa thế vô cùng hiểm trở. Người vợ nói:

- Chỗ này rất tốt, chúng ta ở đây tế thần đi! Anh đứng đối diện với mặt trời giúp em tế lễ.

Ca Lan nghe theo đứng trên một hòn đá lớn, hướng về phía mặt trời. Vợ của chàng giả vờ đi chung quanh chàng vài vòng, khi di chuyển đến sau lưng chàng, thình lình dùng sức xô chàng xuống vực sâu, rồi vui mừng trở về nhà. Ca Lan bị vợ xô, thân bị rơi xuống vực, may mắn giữa chừng có một cây lớn, chàng rơi đúng vào trong đám lá cây rậm rạp, tầng tầng lớp lớp những cành cây mềm mại nâng đỡ làm cho chàng không bị thương một chút nào cả. Nhưng mà kẹt ở giữa sườn núi lên cũng không xong, xuống cũng không được. Chàng lớn tiếng kêu cứu, nhưng không có ai trả lời, không biết phải làm sao đây. Trời càng ngày càng tối, Ca Lan cảm thấy đói bụng, miệng thì khô khát, may mắn trên cây có rất nhiều trái chín thơm, chàng hái rất nhiều, ăn một bụng mới đỡ đói, và cũng không thấy khát nữa. Như thế mấy ngày trời hoàng tử ở giữa lưng chừng núi, trên không với tới trời, dưới không đụng đến đất.

Gần cây này, có một con rùa, hàng ngày nó thường trèo lên cây ăn trái. Hôm nay nó lại đến tìm trái cây ăn, phát hiện trên cây có người, sợ quá không dám trèo lên. Nhiều ngày như vậy, rùa không ăn được trái nào, đói đến nỗi tay chân bủn rủn, mắt hoa, chỉ đành làm gan đến hái trái ăn. Ca Lan ở trên cây mấy ngày trời, không nhìn thấy bất cứ sanh vật nào, nay nhìn thấy con rùa bò đến nên cảm thấy rất thân thiết. Chàng rờ vào mai rùa, hái trái để trước mặt rùa. Cứ như thế, Ca Lan và rùa dần dần thân thuộc, trở thành bạn bè.

Một ngày nọ rùa lại đến ăn trái cây, Ca Lan như thường lệ hái trái cây cho rùa. Lúc rùa đang ăn trái cây, Ca Lan bỗng nhiên khởi tâm đồng tử, nghĩ rằng: “Lưng rùa vừa rộng vừa lớn, cưỡi lên trên chắc rất thoải mái”, bèn trèo lên mình rùa. Rùa đang cúi đầu ăn trái, không ngờ trên lưng có người nhảy lên nên giật cả mình. Nó và Ca Lan đều từ trên cây rơi xuống, rơi vào vực thẳm sâu không thấy đáy, Ca Lan nhắm mắt, chỉ nghe bên tai gió thổi vù vù, chàng nghĩ thầm: “Chết rồi! Lần này chắt chết rồi. Ta chết cũng không sao, chỉ là liên luỵ đến bạn rùa cùng nhau bỏ mạng dưới vực sâu!” Đang nghĩ như vậy bỗng nhiên thấy mình rơi trên một đống cỏ mềm mại, chàng đứng dậy đã thấy mình rơi xuống đáy vực lại không một chút thương tích. Lại nhìn thì thấy rùa đang ở bên mình đang thụt thò đầu cười. Thì ra sơn thần đã cứu mạng cho cả hai. Ca Lan nghĩ: “Nay nên đi đâu? Trở về nhà trong rừng chăng, nhất định không được rồi. Hay là trở về nước ? bỏ đất nước đi đã nhiều năm, giờ này cũng nên trở về thăm. Không biết em trị nước như thế nào?”

Ca Lan trèo non lội suối, đói ăn khát uống, ngày đi đêm nghỉ, cuối cùng trở về nước.

Em thấy anh tu hành trở về, vô cùng vui mừng, bèn nhường lại ngai vàng cho anh. Ca Lan mỗi ngày đều xuất thành tìm hiểu hoàn cảnh trong nước, bố thí cho người nghèo, cứu giúp cho họ tiền bạc, y phục, xe cộ … Việc lành của Ca Lan khiến người kính phục, mọi người rủ nhau đến nương tựa vào Ngài.

Lại nói về người vợ của Ca Lan, sau khi xô Ca Lan xuống vực, nghĩ rằng Ca Lan đã chết, mình muốn làm gì thì làm, bèn có ý định trở về nước. Nàng nghĩ: “Dù sao đi nữa cũng không ai nhận ra ta, vì ta đã lìa nơi đó lâu năm rồi”. Vì thế cô liền đem theo một ít đồ cần dùng, cõng người tội nhân què quặt trở về nước. Gặp người hỏi thăm cô bèn đặt điều nói dối rằng:

- Chồng của tôi là người an phận, vì đất nước chiến tranh bị bắt đi lính, cuối cùng tàn phế thân thể, không thể kiếm sống. Nay tôi nghe nói đại vương thường bố thí, nên cõng chồng chịu muôn ngàn cay đắng khổ cực, đến đây mong cầu được bố thí, để sống qua ngày.

Người ta nghe nàng nói như vậy, tin cho là thật, đều thông cảm thương xót, biếu cho thức ăn vật dụng. Có người còn bảo rằng:

- Ngày mai, hai ông bà nên đi qua cửa đông, thì có thể được bố thí rất nhiều, vì ngày mai đại vương bố thí ở cửa đông. Như bà là người có phẩm đức cao thượng như vậy, chỉ cần kể cho đại vương nghe cảnh ngộ của mình, nhất định đại vương sẽ ban thưởng rất nhiều.

Hôm sau, nàng quả nhiên đến cửa đông, lại thêu dệt câu chuyện khiến cho người xúc động. Nhưng nàng không ngờ rằng Ca Lan vẫn còn sống trở về nước làm vua, nàng càng không thể nhận ra vị quốc vương với áo mão sang trọng, phú quý kia chính là Ca Lan.

Ca Lan thì nhận ra nàng bèn kể cho mọi người nghe việc làm xấu ác của vợ mình. Các quan đại thần nghe Ca Lan kể xong đều vô cùng tức giận, có quan đề nghị thiêu chết, có người đề nghị chặt đầu. Vị đại thần nắm quyền tư pháp nói :

- Tội ác dù có lớn cũng không lớn hơn việc bội phản đạo lý chân chánh mà đi vào con đường phản nghịch, cần phải đem tội nhân đóng đinh trên lưng của người vợ, khiến cho cô ta phải cõng người đó suốt đời.

Mọi người đều cho rằng đây là phương pháp hay nhất, bèn dùng phương pháp này để trừng trị cô ta

 

(Kinh Vua nước Ba La Nại – kinh Hiền Ngu)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tham dâm đa dục sẽ khiến cho lòng người thường sanh những tâm niệm xấu ác, do vậy mà đi trên con đường phạm tội. Vợ của Ca Lan chính là như vậy, cuối cùng gặp phải báo ứng. Ca Lan gặp phải kẻ ác ám hại, nhưng cuối cùng do những hạnh nguyện thiện lành của mình mà được giải cứu, hoá sự nguy hiểm thành bình an. Chúng ta nếu biết làm những việc thiện lành, rộng kết thiện duyên, tin rằng sẽ chuyển xấu thành tốt.

 

Bà la môn và Liên Hoa

 

Thuở xưa có cô gái tên là Liên Hoa, cô rất xinh đẹp mà lại ôn hoà, lương thiện, thông minh hiền huệ, rất có gia giáo. Sau khi gả cho người Bà la môn giàu có, cô trở thành người vợ hiền thục, hết lòng quản lý việc gia đình. Nhưng nàng không ngờ rằng người Bà la môn lại không vừa lòng sự hiền thục xinh đẹp của nàng, âm thầm cùng với người tớ gái trong nhà câu kết, càng ngày càng thân mật. Vì có nàng trước mắt, nên người Bà la môn và cô tớ gái cảm thấy không tiện. Một ngày nọ, người Bà la môn lên núi vui chơi, nhìn cây ưu đàm bát đầy quả bèn nghĩ ra một kế.

Bà la môn giả tâm giả ý quan tâm săn sóc cho Liên Hoa và đem cô lên núi vui chơi. Liên Hoa bản tánh hiền lành, vốn không biết ý xấu của người Bà la môn, hân hoan thưởng thức cảnh đẹp của núi rừng. Bỗng nhiên một luồng gió đem lại mùi thơm ngát mũi, họ nhìn thấy cây ưu đàm trên đầy những quả, Liên Hoa vui mừng chạy đến gốc cây muốn hái trái cây, nhưng cây quá cao.

Người Bà la môn trèo lên cây, Liên Hoa đứng đợi dưới gốc cây lòng tràn ngập hy vọng chồng mình sẽ hái trái cho mình. Người chồng hái một vài trái còn non chưa chín quăng cho Liên Hoa, còn mình thì hái những trái vừa lớn vừa chín đỏ ăn một cách ngon lành. Liên Hoa không hiểu, hỏi:

- Tại sao anh ăn trái chín, còn quăng trái xanh, trái chát cho em?

- Chẳng lẽ em không có tay, không có chân sao? Muốn ăn trái chín thì tự trèo lên mà hái.

Liên Hoa cho rằng chồng muốn mình trèo lên cây, nên vui vẻ nói:

- Anh đã dạy như vậy thì em nghe theo.

Nói xong bèn trèo lên cây.

Nhìn thấy Liên Hoa trèo cây, Bà la môn ngầm đắc ý, vì cơ hội đã đến. Khi Liên Hoa trèo lên cây chú tâm hái trái, thì Bà la môn lén tụt xuống, tìm một đống gai góc bao quanh gốc cây. Nhìn thấy dưới cây một đống gai, Liên Hoa hoảng sợ la lên:

- Anh hãy đem những cây gai này đi chỗ khác, nếu không em làm sao mà trèo xuống được?

Người Bà la môn không thèm ngẩng đầu, tiếp tục rào thêm gai cho đến khi chung quanh cây ưu đàm đầy những gai góc, mới ngẩng đầu lên nhìn Liên Hoa đang kinh hoàng thất sắc trên cây, đắc ý cười rồi bỏ đi.

Trong tiếng kêu cứu của Liên Hoa, người Bà la môn vừa đi vừa nghĩ: “Lần này Liên Hoa nhất định sẽ chết đói trên cây”, cuối cùng đã bỏ được cây gai trong mắt, ông có thể cùng với người tớ gái sống chung với nhau không còn uý kỵ gì nữa.

Nhìn thấy người Bà la môn càng đi càng xa, hồi tưởng lại những việc xảy ra trong gia đình, Liên Hoa bỗng hiểu rõ tâm niệm ác độc của chồng, nhưng khi cô hiểu thì đã quá muộn. Cô nằm trên cành cây, nhìn thấy đống gai chất đầy dưới đất và núi rừng vô tận, cho rằng mình không còn cách nào thoát khỏi bèn thương tâm khóc lớn lên.

Trong lúc Liên Hoa than khóc kêu trời trời không ứng, kêu đất đất không linh thì bỗng nhiên từ đằng xa vọng lại những tiếng xe ngựa. Nàng nhìn thấy đàng xa một đoàn xe ngựa đang rầm rộ tiến đến phía nàng. Thì ra đội ngũ săn bắn của nhà vua vừa đúng lúc đó đi ngang qua đây. Liên Hoa càng khóc lớn lên.

Quốc vương nhìn thấy một cô gái đang khóc trên cành cây trong rừng núi hoang vắng, dưới cây lại chất đầy gai góc, cảm thấy rất kinh ngạc, lập tức ra lệnh xe ngựa dừng lại, sai người dẹp bỏ đống gai và đưa Liên Hoa xuống. Nhà vua hỏi lý do, Liên Hoa kể hết ngọn ngành. Nhà vua và đoàn tuỳ tùng nghe xong vô cùng phẫn nộ. Trên đời này sao lại có hạng đàn ông tàn nhẫn ác tâm như vậy, câu kết với tớ gái, lại gạt người vợ trèo lên cây, dưới gốc thì chất đầy gai góc, muốn cho vợ mình chết. Nhà vua cảm thấy thương xót bèn đem Liên Hoa trở về hoàng cung.

Dần dần nhà vua phát hiện Liên Hoa không những xinh đẹp mà còn nói năng lanh lợi, thông minh hơn người, phân tích sự vật rất có kiến thức hiểu biết. Liên Hoa còn có một tài năng đặc biệt tức là tinh thông các loại cờ bạc. Từ khi cô vào cung, tất cả con gái ở trong và ngoài hoàng cung đều tìm nàng đánh bạc, kết quả ai nấy đều thua sạch túi.

Tình cảm của nhà vua đối với Liên Hoa từ tội nghiệp chuyển thành tình yêu. Sau đó nhà vua lập nàng thành vương hậu, tiếng tăm của vương hậu càng ngày càng lớn, tài năng đánh bạc của nàng đã thu thúc nhiều tay cao thủ, những người muốn tranh thắng hơn thua với nàng, sau khi đánh bạc đều cháy túi mà ra về.

Còn người Bà la môn, sau khi nhốt Liên Hoa trên cây trở về nhà, cùng với đứa tớ gái như cá gặp nước, hàng ngày ham ăn biếng làm, chỉ mải vui chơi. Xưa kia Liên Hoa quản lý gia đình rất gọn gàng ngăn nắp nay thì không ai lo lắng, chăm sóc nên nhà cửa vườn tược càng ngày càng tiêu điều, hoang phế. Lại còn tiền vào không bằng tiền ra, vì thế cuộc sống càng ngày càng khó khăn, không thiếu ăn thì cũng thiếu mặt, đứa tớ gái hàng ngày trách móc, cằn nhằn người Bà la môn, khiến người Bà la môn không ngày nào được yên thân.

Một ngày nọ, người Bà la môn nghe tin vương hậu tinh thông cờ bạc thường chơi với những người cao thủ, ông ta rất vui mừng vì tài nghệ bài bạc của ông ta cũng rất cao, ông ta muốn đến đó hơn thua với vương hậu, nhân cơ hội này kiếm một vố. Đứa tớ gái cũng cho rằng dự định này rất hay, vì thế người Bà la môn bán hết tất cả sản nghiệp trong nhà, kiếm đủ tiền đánh bạc, hùng hổ ra đi.

Khi đến hoàng cung, đối diện với hoàng hậu, người Bà la môn giật mình, ông đã nhận ra vương hậu tức là Liên Hoa. Ông biết kỹ thuật cờ bạc của mình thua Liên Hoa rất xa, nhưng mà ván bài đã định, dù có hối hận muốn thối lui e rằng cũng không còn kịp nữa, chỉ đành miễn cưỡng ngồi lại. Ông nuôi mầm hy vọng, người ta thường nói “một ngày vợ chồng trăm ngày ân nghĩa” huống chi vợ chồng của ông đâu chỉ là một ngày. Liên Hoa là một cô gái hiền lành, nàng nhất định sẽ nhìn thấy hoàn cảnh của người chồng cũ, sẽ nể tình, như vậy mình cũng có cơ hội thắng cuộc.

Người Bà la môn nghĩ như thế, cười nói với Liên Hoa, hôm đó ông ta để nàng trên cây chỉ là để giỡn chơi mà thôi, sau đó trở lại tìm nàng thì không thấy đâu nữa. Ông đi khắp nơi tìm nàng, lo lắng cho nàng, ăn ngủ không an, không còn tâm trí quản lý việc gia đình, hôm nay thì gia đình xuống dốc, hoàn cảnh khó khăn, nay nhìn thấy nàng đã trở thành vương hậu, cũng mừng cho nàng. Vì nàng nay đã thành vương hậu, ông không dám đón nàng về nhà, ông chỉ hy vọng nàng nhớ lại cuộc sống hạnh phúc xưa kia của họ. Lời của người Bà la môn khiến cho Liên Hoa nhớ lại những việc đau khổ, nói:

- Tôi không quên đâu, tôi vĩnh viễn không quên những quả chua mà ông đã hái cho tôi. Nay tôi không muốn nói việc xưa nữa, chúng ta bắt đầu vào cuộc đi.

Có thể biết được cuối cùng người Bà la môn thua sạch cả tiền, tay không trở về nhà. Sau đó người tớ gái cũng bỏ ông mà đi, ông trở thành một ông già cô độc bần cùng khốn khổ.

 

(Phật thuyết phu phụ kinh – Sanh kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Liên Hoa là người thông minh, hiền thục, có tài năng, trải qua những sự khổ đau thử thách mà thành vương hậu, giống như người đã chứng quả đắc đạo, làm sao mà có thể lưu luyến những tham ái sân si của tục trần? Mà những người có tâm niệm xấu ác, bất luận dùng cách gì che đậy cũng không bù đắp được, cuối cùng sẽ bị ác báo, những ác báo này là từ lòng dục vọng tham lam không biết đủ của mình. Người Bà la môn đối đãi với vợ mình như thế là bất trung với gia đình, gặp phải báo ứng như vậy cũng đáng lắm.

 

Không mất đồ

 

Ngày xưa trong một gia đình nọ, chỉ có người mẹ và một đứa con trai. Người mẹ thường khoe với mọi người rằng:

- Ta không bao giờ mất đồ.

Một hôm, khi bà đang kể cho mọi người nghe về việc không bao giờ mất đồ của mình, thì đứa con muốn thử thách xem mẹ mình có bản lĩnh đó hay không bèn lấy chiếc nhẫn vàng trên tay bà quăng vào dòng sông đang cuồn cuộn chảy gần đấy, rồi thưa với mẹ:

- Mẹ không phải thường nói mình không mất đồ sao? Nay con quăng chiếc nhẫn của mẹ vào trong dòng sông, mẹ có thể tìm được chăng?

Người mẹ không trả lời, chỉ xoa đầu con nói rằng:

- Mẹ không bao giờ mất đồ, vài ngày sau chiếc nhẫn sẽ trở về với mẹ mà thôi.

Lúc đó đang là mùa bắt cá, người mẹ đến chợ mua một con cá lớn tươi ngon đem về nhà. Khi làm cá, vừa mổ bụng thì bà nhìn thấy chiếc nhẫn của mình đang ở trong ấy. Người mẹ liền lấy chiếc nhẫn đưa cho con xem:

- Lần này con đã tin lời mẹ chưa? Mẹ nói mẹ chưa bao giờ mất đồ. Con xem, đây có phải là chiếc nhẫn mà con đã quăng xuống sông?

Đứa con nhìn thấy chiếc nhẫn thật không mất, cảm thấy vô cùng kinh ngạc.

Vài ngày sau đó, trên đường hoằng pháp độ sinh, Đức Phật cùng với Mục Kiền Liên, A Na Luật, Ca Diếp…, đi ngang qua đó. Đứa con bèn đi đến chỗ Đức Phật hỏi rằng:

- Bạch Đức Thế Tôn! Mẹ của con tại sao lại có phước báu không bao giờ mất đồ ?

Đức Phật bèn chỉ ngọn núi ở xa xa kể cho người con nguyên do : Phía bắc của ngọn núi đằng kia, mỗi năm đến mùa đông khí hậu rất lạnh lẽo, bầu trời u ám, cho nên mọi người đều dọn đến cư trú ở phía nam của ngọn núi. Có một bà già sống đơn chiếc, tuổi già, sức yếu lại đói nghèo, không có cách nào để dọn tới dọn lui, nên đành ở lại một mình. Bà già giúp mọi người giữ của cải đồ vật. Mùa xuân đến, mọi người lại trở về nhà, bà đem những món đồ mà mình bảo quản trả cho mọi người không sót một món, không bao giờ làm hư hoặc làm mất món gì. Ai ai cũng đều vui mừng.

- Bao nhiêu năm trôi qua, bà lão đơn chiếc cứ làm việc giúp mọi người như vậy. Vì thế mọi người đều cảm ơn bà.

Nói đến đây, Đức Phật ngừng một chút nhìn đứa con đang tập trung tinh thần lắng nghe nguồn gốc câu chuyện, lại nói tiếp:

- Phẩm hạnh cao quý của bà lão, đã làm một vị tiên nhân ở nơi đó vô cùng cảm động, bèn âm thầm ban thưởng cho bà cái phước báu là “Không bao giờ mất đồ”.

Đến đây, người con trai vẫn không hiểu bà lão được vị tiên nhân ban thưởng phước báu với mẹ mình có quan hệ gì. Đức Phật lại nói tiếp:

- Bà già đơn chiếc đó chính là đời trước mẹ của ngươi. Đời trước giữ của cải cho mọi người nên nay được phước báu không mất một món vật gì.

Đứa con nghe xong vô cùng cảm động bởi đức hạnh tốt đẹp đời trước của mẹ mình. Từ đó về sau, người con càng kính phục và càng hiếu thuận với mẹ.

 

(Cựu Tạp Thí dụ kinh quyển thượng)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tận tâm tận lực phục vụ cho mọi người, dù chỉ là một việc nhỏ, cũng có thể khiến cho bạn gieo trồng phước đức. Người mẹ trong câu chuyện này chính vì kiếp trước giữ đồ cho người không để làm mất một món đồ gì cho nên kiếp này được phước báo “không mất đồ”.

 

Chương ba
Phá trừ vọng chấp

 

A Nan mê tình

 

Trong các đệ tử Tỳ kheo của Đức Phật, tôn giả A Nan vừa đẹp trai, vừa trẻ trung. Một lần nọ, trên đường ôm bát khất thực trở về, quá khát nước nên A Nan xin một bát nước của một cô gái cạnh giếng nước bên vệ đường. Cô gái tên gọi là Ma Đăng Già Nữ, nhìn thấy A Nan khôi ngô, tuấn tú, nên sanh lòng ái mộ. Từ đó về sau, Ma Đăng Già Nữ như người mất hồn mất vía, suốt ngày trầm tư. Mẹ gặng hỏi nhiều lần cô mới kể cho mẹ nghe rằng mình đã yêu A Nan vô cùng tha thiết, nếu không lấy được A Nan thì nàng chỉ có con đường chết. Mẹ nàng bảo muốn cùng A Nan kết hôn thì phải học ma chú của Bà Tỳ Ca La Tiên Phạm Thiên, khiến cho trí huệ của A Nan bị che đậy. Ngày kia, A Nan ôm bát ngang cửa Ma Đang Già Nữ, nàng cũng rất lịch sự hỏi thăm và mời vào nhà:

- Kính bạch tôn giả A Nan, trong nhà của tôi rải hoa rải hương quét dọn rất sạch sẽ, mong Ngài vào nhà của tôi nhận sự cúng dường.

A Nan vô cùng do dự, mẹ của Ma Đăng Già Nữ cũng giúp cô xúi giục thêm, A Nan không tự chủ được bèn bước vào. A Nan biết mình bị sắc đẹp mê hoặc, tâm lý rất mâu thuẫn, lý trí và tình cảm phát sanh mối xung đột mãnh liệt. Ma Đăng Già Nữ yêu kiều õng ẹo, dựa kề vuốt ve, khiến cho giới thể của A Nan sắp huỷ hoại. A Nan tiếp nhận hào quang nhiếp thọ của Đức Phật, tâm linh trí huệ lập tức sanh khởi sức mạnh, cuối cùng dũng cảm thoát khỏi sự ràng buộc của Ma Đăng Già Nữ chạy trở về tinh xá Kỳ Hoàn. Ma Đăng Già Nữ không cam tâm, mỗi ngày đến Tinh xá Kỳ Hoàn bồi hồi tới lui đợi chờ A Nan, cuối cùng cô đã đợi được. A Nan ngày nọ từ trong Tinh xá bước ra, Ma Đăng Già Nữ vô cùng vui mừng, đi sát sau lưng A Nan, tìm phương pháp thân cận. A Nan không có cách nào hết chỉ đành trở về Tinh xá Kỳ Hoàn, quỳ xuống trước mặt Đức Phật:

- Bạch đức Thế tôn, Ma Đăng Già Nữ mê hoặc con, con đi đến đâu, cô ta đi theo đến đó. Xin Đức Phật đại từ đại bi giúp con giải thoát sự mê hoặc này!

- Ngươi mời Ma Đăng Già Nữ vào đây.

A Nan vâng lời đi ra cửa Tinh xá, cô gái si tình vẫn còn đang ở đó. A Nan bảo với nàng:

- Đức Phật là bậc đạo sư cứu tế chúng sanh, Ngài muốn gặp cô, nhanh theo tôi vào đây!

Ma Đăng Già Nữ do dự một hồi, cuối cùng can đảm theo A Nan bước đến trước Phật. Đức Phật nhìn thấy nàng bèn hỏi:

- Cô muốn lấy A Nan phải không ?

Ma Đăng Già Nữ để hai tay trước ngực trả lời nhỏ:

- Thưa vâng.

- Ngươi muốn kết hôn với A Nan, trước hết ngươi phải xuất gia một lần, phải đợi đến khi nào đạo tâm của ngươi và A Nan giống nhau thì ta sẽ cử hành hôn lễ cho ngươi và A Nan.

Ma Đăng Già Nữ có tâm muốn làm vợ A Nan nên vui vẻ cắt tóc nhuộm y xuất gia, nhiệt tình nghe Đức Phật thuyết pháp, vâng theo những lời dạy của Đức Phật nỗ lực tu hành. Tâm của nàng ngày càng an tịnh, nghe Đức Phật dạy 5 dục là không sạch, là nguồn gốc của các sự đau khổ, giống như con thiêu thân bay vào lửa bị thiêu chết, như tằm kéo kén buộc mình trong tơ. Nếu bỏ đi 5 dục này thì nội tâm mới được thanh tịnh, cuộc sống mới được an lạc. Ma Đăng Già Nữ dần dần hiểu rằng, bản thân mình say mê A Nan, hoàn toàn là những tư tưởng không thiện lành, không thanh tịnh. Nàng vô cùng cảm mến Đức Phật đã độ hoá sự ngu si của mình, quyết tâm vâng theo lời dạy của Đức Phật, đi trên con đường của Đức Phật, hướng về chân lý giác ngộ giải thoát.

 

(Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm kinh quyển 1)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tình yêu chấp trước của Ma Đăng Già Nữ cũng là thường tình của nhân gian. Chỉ là người cô yêu là đệ tử của Đức Phật: tôn giả A Nan. Tình yêu này không đem lại hạnh phúc cho người được yêu mà còn khiến cho người ta phải bị phiền não quấy nhiễu, cho nên Đức Phật sắp xếp cho Ma Đăng Già Nữ xuất gia tu hành, khiến cho đạo tâm của nàng và A Nan giống nhau. Ma Đăng Già Nữ cuối cùng hiểu rõ sự chấp trước của mình là một tư tưởng không thiện lành, không thanh tịnh.

Tình yêu nhất định phải thích hợp với mình, không nên tham chấp với những người không nên yêu, như thế không những bản thân mình đau khổ mà người khác cũng phải đau khổ phiền não.

 

Thái tử Thanh Tịnh

 

Ngày xưa có một nhà vua tên là Đại Quả, Ngài chỉ có một đứa con trai đặt tên là Đại Lực. Thái tử Đại Lực không thích nữ sắc, càng không muốn lấy vợ sinh con. Bấy giờ, thái tử đổi tên thành Thanh Tịnh. Nhìn thấy huyết mạch của vương thất đoạn tuyệt từ đây vua càng thêm nóng ruột, Ngài bèn tuyên bố khắp dân chúng trong nước :

- Ai khiến cho thái tử Thanh Tịnh ưa thích ngũ dục ta sẽ ban thưởng cho ngàn lượng vàng ròng và nhiều báu vật.

Có cô gái tên là Dâm Chủng tinh thông các việc của đàn bà con gái, nghe được thông báo bèn đến gặp nhà vua, xin nhận lấy nhiệm vụ này. Nàng xin nhà vua cho phép mình tự ý ra vào hoàng cung. Đêm đó vào canh hai, cô đứng ngoài cửa cung thái tử khóc lóc thảm thiết. Đang ngủ ngon bị tiếng khóc làm cho mình thức giấc, Thái tử ngạc nhiên bèn ngồi dậy hỏi thị vệ:

- Ai mà khóc lóc thê thảm như vậy.

Thị vệ thưa rằng:

- Có một cô gái đang khóc ngoài cửa.

- Ngươi đi hỏi xem tại sao đêm hôm khuya khoắt lại khóc ở đây.

Thị vệ ra hỏi, Dâm Chủng trả lời:

- Tôi bị chồng bỏ, nhà cửa đều không, ở ngoài lại sợ bị cướp nên mới than khóc thế này.

Nghe thị vệ bẩm báo, vị thái tử nhân từ liền bảo người thị vệ cho cô gái vào ở chuồng voi. Cô đến chuồng voi vẫn khóc không ngừng. Thái tử lại bảo đưa cô đến chuồng ngựa, ở đó nàng càng khóc thảm thiết hơn. Không có cách nào khác thái tử Thanh Tịnh chỉ đành đem cô gái vào trong tẩm cung của mình. Sau khi vào tẩm cung của thái tử, Dâm Chủng vẫn khóc không thôi, khiến cho thái tử ngạc nhiên bèn hỏi cô ta:

- Sao đến đây rồi mà nàng vẫn còn khóc như vậy?

Gương mặt cô gái lộ vẻ sợ sệt khiếp nhược nói

- Thưa thái tử, tiểu nữ thân gái liễu yếu, trong tâm vô cùng sợ hãi cho nên xót thương mà khóc.

Thái tử nhìn thấy dáng cô đáng thương tội nghiệp bèn nói:

- Vậy cô lên ngủ trên giường tôi đi, như thế sẽ không còn lo sợ nữa.

Sau khi lên giường thái tử, Dâm Chủng không khóc nữa mà còn dùng mọi cách khiêu gợi, khiến thái tử sanh lên lòng dục.

Nhà vua biết được chuyện này rất vui mừng, hỏi thái tử rằng:

- Con nay có yêu cầu gì, ta sẽ thoả mãn cho con.

Thái tử bèn thưa với nhà vua rằng:

- Muôn tâu phụ vương, con muốn phụ vương tuyên chiếu nhập cung tất cả thiếu nữ chưa xuất giá ở trong cõi Diêm Phù Đề do phụ vương thống lĩnh này để họ hầu con trước sau đó mới được xuất giá.

Nhà vua đồng ý lời yêu cầu của thái tử Thanh Tịnh, và bố cáo trong toàn quốc:

- Trong nước ai là gái chưa có chồng đều phải vào hoàng cung hầu thái tử Thanh Tịnh, rồi sau đó mới được lập gia đình.

Sau khi bố cáo được phát ra, mọi nhà chỉ đành đem con gái của mình dâng cho thái tử hưởng thụ. Trong thành có cô gái con của trưởng giả, tên Tu Man cũng bị đưa vào hoàng cung. Trên đường đi, cô loã thể thân mình đi trong đám đông mà không cảm thấy xấu hổ. Đám con gái thấy nàng như thế liền hỏi:

- Cô là con gái của trưởng giả, danh vọng tiếng tăm đồn khắp, tại sao lại loã thể đi giữa đám người như vậy, có khác gì như con lừa con ngựa đâu.

Tu Ma nghe xong trả lời rằng:

- Chúng ta đều là nữ nhân, nữ nhân thấy nữ nhân có gì xấu hổ? Ở đây toàn là nữ nhân, chỉ có thái tử Thanh Tịnh là nam nhân, vậy đến chỗ thái tử ta sẽ mặc y phục.

Mọi người nhìn lại mình, thật vậy, chúng ta đều là nữ nhân chỉ có thái tử Thanh Tịnh là nam nhân, hôm nay chúng ta bị ô nhục như vậy, tại sao không thể tạo phản như nam nhân.

Như thế, đám con gái bèn trói thái tử Thanh Tịnh lại kéo ra ngoài thành dùng gạch đá đánh chết.

 

(Phẩm Lực – Kinh Tăng nhất A Hàm)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Trời thường giáng tai hoạ cho những người tham lam dâm vọng, và sự báo ứng cũng rất nhanh. Nếu như có người không sợ báo ứng, đối với những hành vi tà dâm của mình không biết kiểm điểm sửa lỗi thì sẽ rơi vào vực sâu đau khổ tai hoạ. Người tham dâm dù là làm vua ở cõi người, có quyền lực uy thế rất lớn, cũng vẫn là nô lệ của sự ân ái, bị người sai sử chi phối. Người đó có thể đạt rất nhiều tiền của, châu báu, vàng ngọc, được thoả mãn về thanh dục, sắc dục, nhưng lại trầm mê vào đây không được tự do, và không biết ngày nào thoát ra.

 

Rắn độc

 

Thuở xưa tại nước Xá Vệ, khi Đức Phật Thích Ca và A Nan đi qua một rừng cây, nhìn thấy một đống bạc trong đám cỏ bên vệ đường, Đức Phật ngừng lại nói :

- A Nan! Ở đây có rất nhiều rắn độc, ông có thấy không ?

A Nan vừa nhìn cũng nói:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn ! Đúng là rắn độc.

Nói xong, hai người khoan thai tiếp tục bước đi.

Có một người nông dân đang đứng gần đó nghe thấy liền chạy đến xem sao. Thì ra là một đống bạc trắng lấp lánh! Anh ta vô cùng mừng rỡ, nghĩ thầm: “Đống bạc lớn như thế mà Đức Phật lại nói là rắn độc, thật là khờ quá”.

Tức thì ông chạy đi tìm vợ, hai người cùng nhau lén lút chuyển đống bạc về nhà. Khi có tiền, giấu trong nhà thì sợ người phát hiện, đem đi dùng người nông dân lại không dám. Mỗi ngày ông chỉ lấy một chút mua đồ, nhiều lần như thế thì hàng xóm sanh tâm nghi ngờ. Cùng lúc ấy trong kho vua bị trộm mất một số bạc lớn, trên đó có ký hiệu, vì thế hàng xóm liền báo quan. Quan phủ cho người đến điều tra lục soát phát hiện bạc trong nhà anh ta đúng là số bạc nhà vua bị mất cắp. Người nông phu bị bắt đem về trị tội. Lúc bị chặt đầu, nhớ đến lời Đức Phật và A Nan, bây giờ anh ta mới hiểu rõ tiền của là thứ hại người, than rằng: “Rắn độc! Thật là rắn độc”. Quốc vương hỏi anh đã nói gì? Người nông dân liền kể lại câu chuyện, gặp Đức Phật và đệ tử nói tiền là rắn độc. Nhà vua tìm Đức Phật để hỏi thăm về chuyện này. Sau khi điều tra thì biết tên ăn trộm sau khi vào kho vua trộm bạc, phát hiện trên có khắc ký hiệu, nên không dám lấy đi, bèn quăng trong đống cỏ. Người nông phu lúc đó mới được tha cho tội chết.

 

(Đại Trang Nghiêm kinh luận quyển 6)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Được tiền của chưa chắc đã là phước, huống chi là của bất nghĩa, sẽ đem tai hoạ vào thân. Đức Phật gọi tiền bạc là rắn độc, tức chỉ bạc vàng là thứ gây ra tai hoạ cho người. Cần phải có hành vi đoan chánh, xây dựng cho mình một cái nhìn chính xác về giá trị đồng tiền mới không bị rơi vào ma lực quyến rũ của nó, không có cách nào thoát ra khỏi.

 

Nan Đà kiểm tài

 

Ngày xưa có một vị vua tên là Nan Đà. Ông vô cùng ham thích tiền bạc, tận lực thu thập vàng bạc châu báu, hy vọng sẽ đem số vàng bạc châu báu này để lại cho đời sau của mình, ông ta nghĩ: “Ta phải gom góp tất cả trân bảo của đất nước vào một chỗ, không để một chút bên ngoài”. Ông an trí con gái ở trên lầu và dặn những người hầu rằng:

- Nếu có ai đem tiền của đến cầu con gái của ta thì đem người ấy cùng với tài bảo đến chỗ của ta.

Vua Nan Đà dùng phương pháp đó để tập trung tài bảo, tất cả tiền bạc châu báu đều tập trung vào kho của nhà vua, ở trong nước không còn chỗ nào có tài bảo nữa.

Trong nước có một bà goá chỉ có một đứa con trai, bà rất thương đứa con của mình. Đứa con nhìn thấy công chúa đoan trang kiều diễm, dung mạo hơn người, nên đem lòng yêu mến. Nhưng trong nhà anh ta không có tiền của nên không thể kết giao với công chúa. Vì chuyện này mà anh sanh bệnh, suốt ngày chỉ tương tư công chúa, sức khoẻ càng ngày càng cạn kiệt. Người mẹ hỏi:

- Con bệnh gì vậy? Tại sao lại ra nông nổi này?

Người con đem tình cảm trong lòng kể cho mẹ nghe và nói:

- Nếu con không được kết giao với công chúa chắc con sẽ chết.

Thương con, người mẹ nói:

- Nhưng vàng bạc châu báu đều tập trung hết trong kho của vua, mẹ biết đi đâu để kiếm chút bảo vật?

Bà không muốn con mình đau khổ như vậy, nghĩ một hồi rồi nói:

- Khi cha con chết, trong miệng có ngậm một đồng tiền vàng. Con hãy đào mộ cha con, may ra được đồng tiền đó để kết giao với công chúa.

Đứa con trai vâng lời mẹ đi đào mộ, lấy đồng tiền vàng từ trong miệng của cha mình. Sau khi có tiền bèn đi đến chỗ công chúa, nàng liền đưa anh ta cùng với đồng tiền vàng đến chỗ nhà vua. Vua nói:

- Tất cả tiền bạc, bảo vật trong nước, ngoài kho tàng của ta đều không còn ở đâu cả. Nhà ngươi kiếm được đồng tiền vàng này ở đâu? Nhất định là hôm nay ngươi vừa phát hiện một kho tàng dưới đất.

Quốc vương dùng các thứ hình phạt tra khảo, muốn biết người con trai do đâu mà được đồng tiền vàng này. Người con trai trả lời:

- Tôi thật không phải được đồng tiền vàng này từ trong kho tàng dưới đất. Mẹ tôi bảo: khi cha tôi chết có ngậm một đồng tiền vàng trong miệng. Tôi quật mộ lên mới được đồng tiền vàng này.

Quốc vương Nan Đà phái người đi điều tra, quả nhiên không sai, lúc đó mới tin tưởng. Vua nghe sứ giả báo cáo nghĩ thầm: “Ta trước kia thu thập tất cả vàng bạc châu báu trong nước là mong muốn đem những thứ này về kiếp sau. Nhưng người cha của cậu con trai kia chết đi, một đồng tiền vàng cũng không đem theo được, huống chi ta có nhiều bạc vàng châu báu như thế?

Bài kệ rằng:

Tiền tài là vật ngoài thân,

Tham lam keo kiệt có ích gì,

Dù tích chứa muôn vạn ức,

Chết đi không mang được vật gì.

 

(Đại Trang Nghiêm kinh luận quyển 3)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Mục đích của Phật giáo là muốn chúng ta lìa khổ được vui, mà thế gian này có rất nhiều dục vọng: tham, sân, si, danh và lợi, bạc vàng và gái đẹp, còn Phật giáo thì giúp người nhận thức rằng: sự vật trên thế gian này đều là vô thường. Cảnh đời thay đổi biển cả nương dâu, con người thì sanh lão bệnh tử, tất cả đều nằm trong quy luật sanh trụ dị diệt. Trái cây nhìn dường như bất động, thực tế giờ giờ khắc khắc đang dần dần thúi nát. Quả địa cầu tỷ ức năm sau cũng có ngày huỷ diệt. Bản thân Phật giáo đến một thời gian nào đó cũng không còn tồn tại. Danh lợi, địa vị, vàng bạc, có thứ nào không như vậy đâu?

Con người thường hay có lòng tham, cần phải phá trừ tham, sân, si, không nên quá chấp chặt vào những vật ngoài thân.

 

Vua hiểu tiếng thú cầm

 

Ngày xưa, con gái của vua rồng đi chơi bị người chăn trâu bắt trói, đánh đập. Vừa dịp quốc vương đi thị sát ngang đó, thấy con gái của vua rồng bèn giải cứu cho nó. Long nữ khóc trở về nhà, vua rồng hỏi con gái:

- Tại sao con khóc vậy ?

- Nhà vua vô duyên vô cớ đánh con.

Vua rồng nghĩ thầm: “Nhà vua này bình thường rất nhân từ, sao lại vô duyên vô cớ đánh người ?”

Đêm đó, vua rồng biến thành một con rắn bò dưới giường của nhà vua để nghe nhà vua nói gì. Nhà vua nói với phu nhân:

- Hôm nay, thị sát dân tình ngoài hoàng cung, thấy người chăn trâu đánh một đứa bé gái, ta đã cứu đứa bé ấy cho nó về nhà.

Hôm sau vua rồng biến thành người đến gặp đức vua nói:

- Đại vương có ân lớn với tôi, con gái của tôi hôm qua đi chơi, bị người hiếp đáp, đại vương đã cứu nó. Tôi là Long vương, nhà vua muốn điều gì, tôi đều thoả mãn yêu cầu của Ngài.

Nhà vua nói:

- Báu vật của tôi đã nhiều rồi, tôi chỉ mong được hiểu tiếng các loài chim thú.

Vua rồng nói:

- Vậy thì Ngài hãy trai giới bảy ngày đi.

Sau bảy ngày vua rồng bèn dạy cho nhà vua tiếng của các loài chim thú và dặn:

- Cẩn thận, đừng để cho kẻ khác biết.

Từ đó nhà vua hiểu được tiếng thú cầm.

Một hôm nọ, đang dùng cơm cùng với phu nhân, quốc vương nghe con bướm cái kêu con bướm đực đem cơm lại ăn, bướm đực nói:

- Mỗi người tự đi lấy mà ăn.

Bướm cái nói:

- Bụng em lớn đi không tiện.

Nhà vua nghe rồi không nhịn được bèn cười lớn lên.

Phu nhân hỏi:

- Đại vương cười gì thế?

Nhà vua im lặng không trả lời.

Một lần sau đó, nhà vua và phu nhân đang ngồi với nhau, nhìn thấy đàn bướm trên bức tường tranh cãi đánh lộn, có con rơi trên mặt đất. Không nhịn được nhà vua lại cười lên. Phu nhân thắc mắc hỏi:

- Đại vương cười gì vậy ?

Nhà vua vẫn không trả lời, mỗi lần hỏi nhà vua đều không trả lời, phu nhân ấm ức nói:

- Nếu đại vương không nói cho thần thiếp biết tại sao Ngài cười như vậy, thần thiếp sẽ tự sát.

Nhà vua nói:

- Vậy đợi trẫm đi về sẽ nói cho hoàng hậu nghe.

Nhà vua ra khỏi hoàng cung.

Vua rồng biến ra hàng trăm con dê đi qua sông. Một con dê mang thai gọi chồng mình :

- Ông nhanh trở lại đón tôi với.

Dê đực nói:

- Tôi mệt rồi, không thể quay trở lại đưa bà qua sông.

Dê Cái nói:

- Nếu ông không đưa tôi qua sông, tôi sẽ tự sát Ông không thấy quốc vương vì đàn bà mà chết hay sao ?

Dê đực nói:

- Vị quốc vương đó quá ngu si mới chết vì nữ nhân, bà muốn chết thì cứ chết, bà nghĩ rằng bà chết rồi tôi sẽ không có vợ khác à?

Nghe được câu chuyện giữa dê đực và dê cái, nhà vua nghĩ thầm: “Ta là vua một nước, chẳng lẽ không thông minh bằng một con dê?”

Khi nhà vua về đến hoàng cung, phu nhân nói:

- Nếu đại vương không nói cho thần thiếp nghe, thần thiếp sẽ tự sát.

- Nếu nàng tự sát thì cũng tốt. Trong cung có biết bao nhiêu cung tần mỹ nữ, ta đâu cần đến nàng.

Kệ rằng:

Ân ái muôn ngàn chủng loại,

Đều do si tâm làm ra.

Chữ tình không phá được,

Sanh tử khó thoát ra.

 

(Cựu Tạp Thí dụ kinh )

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Sau khi hiểu tiếng chim thú, nhà vua mới hiểu rõ cái tâm tham si của mình, phải vượt ra ngoài thế gian, quan sát tình cảm của nhân loại, mới có thể không tham luyến chấp trước, như thế cảnh giới mới tự nhiên rộng mở thênh thang trước mặt mình.

 

Tế cây biến dê

 

Khi Đức Phật còn tại thế, có một ông già, gia đình rất giàu có. Vì để giữ gìn gia sản, ông thường lễ bái cầu thần linh gia hộ và phát nguyện ăn chay trường, không sát sanh.

Một ngày nọ, ông lão bỗng nhiên thèm ăn thịt, nhưng nghĩ đến lời nguyện của mình không dám sát sanh. Vì thế ông nghĩ ra một cách, kêu mấy đứa con đến bên bờ ruộng, chỉ cái cây ở đầu ruộng nói với đám con trai rằng:

- Nhà chúng ta may có chút sản nghiệp, tiền của dồi dào, đều nhờ vị thần cây ban phước. Các con hôm nay bắt một con dê giết để tế thần cây.

Đám con trai nghe lời, lập tức giết một con dê tế thần cây, và ở dưới gốc cây xây một cái miếu, dùng để hàng năm tế thần. Còn thịt dê thì ông lão và các con của ông chia nhau ăn.

Qua vài năm, ông lão qua đời, vì kiếp trước tạo nghiệp, sau khi chết đầu thai thành một con dê trong đám dê của gia đình mình.

Một ngày nọ, mấy đứa con trai lại nghĩ đến việc tế thần cây, họ chọn một con dê trong đám dê chuẩn bị giết để tế thần. Thật không ngờ đến con dê đó tức là cha của họ. Đám con trai cột chặt con dê, chuẩn bị để giết thì con dê bỗng nhiên nói:

- Cây này không có thần linh gì cả, ta xưa kia vì muốn ăn thịt mới thêu dệt lên câu chuyện, kêu các con giết dê tế thần rồi ta và các con cùng ăn thịt, không ngờ ta trả nợ sớm hơn các con.

Lúc đó có một vị La hán đến hoá duyên, dùng sức thần thông của Ngài khiến cho đám con thấy được người cha chuyển kiếp làm dê. Đám con biết được sự tình vô cùng áo não, lập tức đốn bỏ “cây thần”, từ đó sám hối ăn năn làm các điều lành, không còn dám sát sanh nữa.

 

(Tế thần cây – Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Trên đời này có những hạng người vô tri như vậy, gặp phải ruộng phước Tam bảo không chịu bố thí, còn đối với đình miếu quỷ thần, lại vui vẻ kiến tạo xây dựng. do vì mắt tuệ chưa khai mở mà thôi. Họ nào hay suy nghĩ đến điều nhân quả báo ứng, từ đó về sau, lớn thì heo, dê, nai, thỏ, nhỏ thì gà, vịt, cá, tôm, đều bi thương mà chết dưới lưỡi dao, vùng vẫy lăn lộn trong nồi nước sôi không biết là bao nhiêu mà kể. Gây tạo nghiệp sát vô lượng như vậy, thật là thiên đường chưa đến mà địa ngục đã vào trước.

Có câu: “Giới là căn bổn của vô thượng bồ đề”, đã tin phụng Phật pháp thì cần phải nghiêm trừ giới luật, việc không nên làm, nếu làm thì phạm giới. Nếu người nào muốn khai mở giác tánh thành Phật của mình thì đầu tiên cần phải lấy giới luật làm phép tắc căn bổn của chính mình.

 

Ăn trộm

 

Ngày xưa, có một người ở trong núi vắng, quanh năm không thấy bóng người, cuộc sống vô cùng đạm bạc.

Một ngày nọ, có người thợ săn đi tìm thú rừng, tìm đến nơi đây. Anh ta kể cho người này nghe rằng cuộc sống ở thành thị phồn hoa vui sướng như thế nào. Người này nghe xong, sanh lòng hâm mộ cuộc sống ở thị thành.

Rốt cuộc, một ngày nọ, người này trèo núi xuyên rừng đến một đô thị, nhìn thấy khắp đô thị đâu đâu cũng là nhà cao cửa rộng, nam nữ ăn mặc thanh lịch sang trọng, món ăn đều là sơn hào mỹ vị, cảm thấy người ở đây thật là quá hạnh phúc. Nghĩ đến mọi người đều sống vô cùng vui sướng như thế, còn mình lại không có một thứ gì, phải làm sao đây? Người này bèn nhân lúc tối trời lén vào hoàng cung trộm lấy y phục của nhà vua. Sau khi vụ trộm bị phát giác, nhà vua bèn phái nhiều binh lính đến khắp nơi điều tra, chỉ vài ngày sau bắt được tên ăn trộm đưa tới nhà vua thẩm vấn. Người này biện bạch không thừa nhận y phục này là đã lấy trộm của vua, còn nói đây là y phục do tổ tiên của mình để lại. Nhà vua nói:

- Nếu đã là y phục của tổ tiên để lại thì nhà ngươi thử mặc xem sao.

Trước mặt nhà vua, người này dùng đủ mọi cách để mặc bộ y phục, nhưng làm cách nào cũng không mặc được. Người này đem món đang mặc trên cánh tay mà mặc dưới chân, đem món đang mặc ngang lưng bụng mà mặc lên trên đầu.

Nhà vua nhìn thấy tình cảnh như thế không nhịn được cười lớn nói:

- Ngay mặc cũng không biết, còn nói là y phục của tổ tiên để lại. Quân đâu đem nó giam vào trong nhà lao.

Như thế người này bị nhà vua bắt giam vào trong ngục tối.

 

(Trộm áo trong kho vua – Kinh Bách dụ )

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Sanh ra ở cõi đời này, có người giàu sang, có người nghèo khổ, phú quý bần tiện không giống nhau, cách sống cũng không giống nhau, phước báo và nghiệp báo của mỗi người cũng không đồng. Cuộc sống trong núi rừng có sự lạc thú và hưởng thụ của nó, cuộc sống đơn thuần đơn giản trong núi rừng chưa chắc không phải là một cuộc sống tươi đẹp. Không nên nhắm mắt hâm mộ ưa thích cuộc sống của người, không nên làm nô lệ cho vật chất, thậm chí có những hành vi trộm cắp. Nên biết sự hưởng thụ do trộm cắp đem lại rốt cuộc chỉ là một giấc mộng hư huyễn, phải bị trừng phạt. Trong cuộc sống hiện thực, giống như người trộm y phục rất nhiều, loại người này có một bệnh chung là “Ưa nói xạo”. Có người vì danh, có người vì lợi, cho nên mất đi lý trí. Thật là bi ai.

 

Quá tham không lợi

 

Có hai con quỷ lượm được một cái rương, một cây gậy và một đôi guốc. Chúng đều muốn chiếm riêng làm của mình nên tranh chấp mãi không thôi.

Lúc đó có người đi ngang nhìn thấy hai quỷ tranh chấp bèn hỏi rằng:

- Ba món đồ này có công dụng gì mà các ngươi tranh nhau dữ vậy?

Hai quỷ trả lời:

- Cái rương này có thể biến ra đồ ăn thức uống, y phục mùng mền cho đến vàng bạc châu báu. Còn cây gậy này, nếu cầm nó trong tay thì hết thảy địch thù đều quy phục, không dám chống cự. Đôi guốc này mang vào thì có thể đằng vân, muốn đi đến đâu thì lập tức sẽ bay đến đó.

Người này nghe xong bèn bảo với hai quỷ rằng:

- Các ngươi hãy tránh xa một chút, tôi sẽ phân xử công bằng cho.

Hai quỷ nghe theo lời của anh tránh ra nơi khác.

Người này bèn lập tức ôm cái rương, tay cầm gậy, chân mang đôi guốc bay lên không trung, rồi từ trên không trung nói với hai quỷ rằng:

- Nay thì các ngươi có thể bình an rồi, vì không có gì để tranh chấp nữa.

Hai quỷ nghe rồi vô cùng áo não vì mất của nhưng không làm gì được anh ta.

 

(Hai quỷ tranh vật – Kinh Bách dụ )

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Bố thí giống như rương báu, tất cả sự hưởng dụng vật chất của người đều do phước báu của lòng nhân thiện bố thí đem lại; thiền định như gậy báu, tu thiền định có thể hàng phục oán tặc phiền não; trì giới như đôi guốc báu, trì giới luật thanh tịnh, có thể sanh vào cõi trời cõi người.

Hai con quỷ trong chuyện ví dụ cho tà ma, ngoại đạo, trong pháp hữu lậu miễn cưỡng tìm cầu phước báu, kết quả là không có được một thứ gì. Chỉ có nhất tâm nhất ý tu các điều lành và bố thí, trì giới, thiền định, mới có thể thoát ly biển khổ, chứng đắc đạo quả.

Hai con quỷ trong câu chuyện vì quá tham lam, kết quả lộ ra nhược điểm mới bị người lợi dụng, khiến mình cuối cùng không có được món gì. Vì thế xin khuyên người đời, chớ vì lợi ích của cá nhân mình mà tranh chấp lẫn nhau, cuối cùng 2 bên đều thương tổn, mà để cho kẻ thứ 3 được lợi.

 

Keo kiệt thành bần cùng

 

      Ngày xưa, có người nhà giàu tên là Y Lợi Sa, tuy rất giàu có nhưng bản tính lại vô cùng bủn xỉn keo kiệt. Hàng ngày không những một xu cũng phải chia làm hai để tiêu xài, mà ngay cả một chút lợi nho nhỏ bằng hạt mè cũng không muốn cho kẻ khác, ngay cả cuộc sống hàng ngày của mình cũng rất khắt khe. Mặc thì toàn y phục rách nát chỉ có thể che thân, vá cũng không dám vá, ăn toàn gạo tấm vụn nát, đồ ăn ươn thối, không có chút dầu mỡ béo bổ.

Y Lợi Sa có một người hàng xóm, gia cảnh tuy không giàu có, nhưng ngày ngày đều ăn cá ăn thịt, cứ năm bảy ngày thì mời bạn bè đến tiệc tùng, cuộc sống vô cùng vui sướng.

Y Lợi Sa thấy như vậy, rất không phục, nghĩ thầm: “Ta giàu có hơn nó biết bao nhiêu lần, mà nó thì hàng ngày sống như vua vậy, tự do sung sướng còn ta thì gian nan khổ cực, thật là không hợp lý, phải thay đổi hoàn cảnh mới được”.

Sau khi nghĩ như vậy, Y Lợi Sa bèn làm một quyết định vĩ đại, giết một con gà, lại đong một lít gạo trắng, dự định sẽ ăn một bữa cơm ngon lành. Đang chuẩn bị nướng gà, Y Lợi Sa bỗng nhiên do dự, nghĩ rằng: “Ta nướng thịt gà, mùi thơm bay lên sẽ bị hàng xóm ngửi được, thì làm sao đây? Nếu có người đến hoá duyên, thì càng khó xử hơn”.

Nghĩ tới nghĩ lui, bèn nghĩ ra một cách. Anh ta đánh xe đến một chỗ hoang vu không người không khói, sau đó nấu cơm, nướng thịt gà để ăn một bữa cho đã đời.

Hành vi của Y Lợi Sa đều bị Đế Thích nhìn thấy, liền biến thành con chó đến bên cạnh anh ta, hít hít lỗ mũi, lè lưỡi, chảy nước miếng, đi chung quanh Y Lợi Sa như muốn xin đồ ăn.

Y Lợi Sa nhìn thấy con chó quá đáng ghét, làm cho mình ăn không vô, bèn nghĩ ra cách đuổi con chó đi. Anh ta đứng lên giả bộ rộng rãi nói với chó rằng:

- Ngươi muốn ăn đồ ăn của ta, không sao, nhưng mà ngươi phải đáp ứng một điều kiện: Nếu ngươi có thể đưa bốn chân lên trời, thân mình bay lên ngừng giữa hư không. Ta có thể thưởng cho ngươi một chút thức ăn.

Không ngờ con chó lại gật đầu, nó đưa bốn chân lên trời, bay lên và ngừng ở giữa hư không.

Y Lợi Sa giật mình, muốn phân chia cho chó chút thức ăn, nhưng quá đau lòng. Nên anh ta giả bộ dáng điệu rộng rãi nói với chó rằng:

- Bốn chân hướng lên trời, thân hình nằm ở giữa hư không thật ra thì con chó nào cũng đều biết làm cả, ta đây chỉ muốn thử xem ngươi có muốn ăn đồ ăn của ta không ? Nếu ngươi thật sự muốn ăn đồ ăn của ta thì hãy móc cặp mắt quăng trên mặt đất thì ta sẽ cho đồ ăn.

Lời nói vừa xong thì cặp mắt của con chó đã rơi trên mặt đất. Lúc đó Y Lợi Sa mừng nghĩ rằng: “Như thế ngươi có thấy gì đâu mà đòi ăn”.

Anh ta lập tức dọn hết cơm và thịt gà đi chỗ khác thật xa mới an tâm ngồi lại ăn thật no nê. Từ khi cha sinh mẹ đẻ cho tới nay, chưa được ăn một bữa ngon như thế này. Vua trời Đế Thích nhìn thấy anh ta bủn xỉn, keo kiệt như vậy thật đáng ghét, phải trừng trị anh ta một trận cho biết.

Đế Thích biến thành Y Lợi Sa, lấy xe anh ta về nhà. Vừa về tới nhà bèn bảo người canh cửa rằng.

- Nếu có người mạo nhận ta đến đây thì phải đánh đuổi không cho vào nhà.

Nói xong liền vào nhà đem tài sản mà Y Lợi Sa bao nhiêu năm cực khổ tích luỹ phân phát bố thí cho người nghèo, lại thưởng tiền bạc cho cả trăm người giúp việc và cho họ trở về nhà của họ.

Nhìn thấy người bình thường vốn bủn xỉn từ xưa đến nay, bỗng nhiên phát đại thiện tâm, mọi người đều kinh ngạc, sau đó hết lời xưng tụng.

Lại nói đến Y Lợi Sa, ăn xong cơm, tâm ý thoả mãn rồi bèn trở về đến chỗ để xe thì không còn thấy xe đâu nữa, khiến anh ta vừa giận vừa nóng ruột, tìm suốt cả ngày không thấy cuối cùng chỉ đành đi bộ về nhà. Đến cổng, người giữ cửa ngăn lại không cho anh ta vào. Anh ta nổi giận lôi đình hét lớn

- Đồ khốn nạn, làm sao ngay cả chủ của ngươi mà ngươi không nhận ra. Nếu không nể tình ngươi ở đây làm việc mười mấy năm, ta nhất định sẽ trừng trị ngươi! Lần này chỉ trừ vào tiền lương, lần sau không dễ dàng bỏ qua cho ngươi như vậy đâu.

Người gác cổng nghe rồi bèn cười giễu rằng:

- Hèn gì ông chủ dặn dò, bảo chúng ta phải đánh đuổi người nào đến đây mạo nhận ông chủ, nay thật có người dám đến mạo nhận là ông chủ.

Vì thế bất kể Y Lợi Sa thét gào như thế nào, người giữ cửa không chút nể nang dùng gậy đuổi ra khỏi nhà.

Y Lợi Sa nhìn thấy tài sản mà mình nhịn ăn, nhịn mặc, cực khổ dành dụm bao lâu nay bị đem hết cho người nghèo, tức giận đập đầu, đập ngực, kêu trời kêu đất đau thương không muốn sống nữa, nhưng không ai thông cảm thương xót. Vì quá tức giận nên hoá điên, tài sản không còn một thứ gì Y Lợi Sa chỉ đành trên đường phố xin ăn sống tạm qua ngày tháng.

 

(Cựu Tạp Thí dụ kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Bủn xỉn keo kiệt như Lợi Sa, thật là ít thấy. Kết quả là trời giận người hờn, khiến mình trở thành kẻ nghèo khổ đi xin ăn. Mục đích tích chứa tiền của là để cho mình có cuộc sống thoải mái, tiện nghi, nhưng chỉ biết quá tiết kiệm keo kiệt khiến cuộc sống của mình khó khổ nghèo đói như người ăn mày, giống như bỏ gốc đi tìm ngọn, không biết là mình đang làm cái gì.

 

Trọng giàu khinh nghèo

 

Nước Trúc Xoa Thi La có một thôn làng tên là Bác La Hu La, làng này có một thương nhân, tên là Xưng Già Bạt Tra, ông ta xây dựng một ngôi chùa đến nay vẫn còn. Xưng Già Bạt Tra vốn là con trai của một ông trưởng giả, tiền của dồi dào, sản nghiệp giàu có, sau đó nhà cửa làm ăn thất bại, trở thành nghèo khó, khi nghèo khó thì bà con thân thích đều khinh thường, không xem như bà con thân thuộc nữa. Buồn giận, anh bèn bỏ nhà ra đi làm bạn với một đám thương buôn, đến nước Tần. Anh ta ở nước Tần khổ cực buôn bán kiếm rất nhiều tiền của bèn lên đường trở về nước. Lúc đó những người bà con nghe nói anh làm ăn phát tài giàu có đều cùng nhau dọn những món ăn vật uống, hương hoa, kỹ nhạc bên vệ đường nghênh tiếp anh. Xưng Già mặc một bộ đồ bình thường, đi trước đám thương nhân. Xưa kia nghèo khổ, tuổi còn nhỏ, nay thành gia lập nghiệp đã già đi nhiều rồi nên bà con thân thích đi đón anh ta không nhận ra anh nữa, còn nắm lấy anh hỏi rằng:

- Xưng Già ở đâu?

Anh đáp:

- Ở phía sau.

Thân thích liền chạy đến sau đám thương nhân hỏi:

- Xưng Già ở đâu?

Đoàn thương nhân trả lời:

- Người đi phía trước là Xưng Già.

Bà con thân thích tìm được Xưng Già liền hỏi:

- Ông là Xưng Già, tại sao lại nói với chúng tôi ông ở phía sau?

Xưng Già trả lời:

- Xưng Già không phải là tôi, ông ta là những món đồ trên lưng lạc đà và những con lạc đà trong đoàn. Tại sao nói như vậy? Nếu tôi đơn độc trở về, bà con nhất định khinh thường, ngay cả nói chuyện cũng không thèm nói. Nhưng nay được biết tôi có nhiều tiền của, quý vị tranh nhau đón tôi. Cho nên tôi nói Xưng Già ở trên những con lạc đà ở phía sau.

Bà con thân thích nghe nói vậy vô cùng xấu hổ, nói:

- Ông nói gì vậy, chúng tôi không hiểu!

Xưng Già trả lời:

- Khi tôi nghèo khổ, nói chuyện với quý vị quý vị cũng không để ý đến, nay nhìn thấy tôi phát tài liền bày những thức ăn món uống trên đường để đón tiếp tôi. Quý vị không phải đón tiếp tôi mà đón tiếp những món tiền của châu báu này.

Kệ rằng:

Buồn cho người đời hiểm ác,

Phần đông chạy theo thế lực.

Khinh ta vì ta nghèo khó,

Trọng ta vì của cải ta.

 

(Đại Trang nghiêm kinh luận quyển 15)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Có câu: “Trước khinh sau cung kính” là nói về thái độ của bà con quyến thuộc đối với sự bần cùng hay thành đạt của một người. Phàm phu tục tử đều có tâm lý hoặc lộ rõ ra hoặc dấu kín, đó là khinh nghèo trọng giàu. Như người ta thường nói, nghèo tại thành thị không ai hỏi, giàu ở sơn lâm có kẻ tìm.

Thân thích là mối chân tình ở nhân gian, cần phải giữ gìn và xem trọng mối thân tình này, nên phá trừ lòng tham luyến tiền bạc, nên xem trọng tình nghĩa, thành tâm đối đãi với người, nhiệt tình giúp đỡ lẫn nhau, đó mới là đạo làm người.

 

Không đức mất vật báu

 

Có một người rất nghèo, nhưng không muốn lao động kiếm tiền, suốt ngày chỉ sống trong huyễn tưởng, cầu nguyện thần linh gia hộ cho mình phát tài. Anh ta nhìn thấy người ta đến đình miếu tế bái thiên thần để cầu cho gia đình hạnh phúc, con cháu đầy nhà, tiền của dồi dào, bèn cũng đi đến miếu tế bái thiên thần.

Anh quá nghèo, trong nhà không kiếm được món gì tế bái thần linh, bèn đi xin ăn, khó khăn lắm mới chuẩn bị được một chút lễ vật, đi đến miếu tế bái cầu nguyện. Anh quỳ trên mặt đất, nghĩ đến hoàn cảnh nghèo khổ khó khăn của mình, lệ rơi lả tả. Anh thành kính dập đầu xuống đất lễ bái thần linh, cứ niệm mãi:

- Cúi mong các vị thần đại từ đại bi ban cho con tiền của vàng bạc.

Anh cúng vái lần này rồi lễ bái lần khác, nhưng tiền của vẫn không có. Anh không nản lòng, vẫn tiếp tục đi mượn đồ, đi xin ăn đem về cúng tế thiên thần. Anh tin rằng tâm thành thì tự nhiên có cảm ứng. Anh thành tâm thành ý cúng bái 12 năm, không bao giờ gián đoạn, một lòng mong mỏi mộng ước của mình thành sự thật.

Thấy anh thành tâm tha thiết, Thiên thần thương xót hiện ra chơn thân, hỏi:

- Mười hai năm nay, ngươi không ngừng lễ bái cúng tế cho ta, ngươi mong muốn ta giúp nhà ngươi cái gì?

- Con hy vọng con muốn gì được nấy.

- Ta sẽ cho ngươi được như nguyện ước.

Thiên thần bèn tặng cho anh một món bảo bối, gọi là “bình đức”, nói :

- Chỉ cần ngươi lắc bình này 3 lần thì những gì ngươi muốn sẽ từ trong bình này biến ra.

Nhận được bình thần anh ta mừng vui khôn xiết, quên cả cám ơn thiên thần, khi nhớ lại thì thiên thần đã biến mất.

Anh cầm cái bình lên nghĩ rằng: “Cái bình này chẳng lẽ lại có sức thần kỳ như vậy sao? Để ta thử xem”. Lúc đó anh đang đói, bụng kêu rột rột, bèn lắc cái bình 3 lần nói:

- Hãy biến ra cho ta những thức ăn ngon nhất trong thiên hạ.

Lập tức trên cái bàn hư cũ của anh, bày đầy những sơn hào hải vị. Anh mừng quá múa men tay chân, nói:

- Bảo vật này thật đúng như lời thiên thần! Nay ta muốn gì sẽ được cái nấy.

Vì quá đói anh ăn ngốn ngấu, nhìn thấy những thức ăn trên bàn vẫn còn mà mình đã no quá rồi, anh cảm thấy quá đầy đủ.

Nhưng qua một lúc anh lại không thoả mãn. Chỉ ăn no chưa đủ, còn phải mặc ấm nữa. Anh bèn lắc cái bình yêu cầu những y phục tốt nhất trên cõi đời này. Bình thần lại hiện ra các thứ y phục tốt đẹp. Nhìn thấy biết bao nhiêu y phục mới xinh đẹp trên chiếc giường cũ của mình, anh vẫn chưa thoả mãn, yêu cầu bình thần cho giường mới, nhà mới…

Anh trở thành một người giàu có xa gần đều biết tiếng, chỉ cần anh muốn thứ gì thì được thứ đó. Vàng bạc châu báu mọi thứ đều có, đình đài lầu cát san sát với nhau, ngựa xe người hầu tiền hô hậu ủng, mời khách tặng quà ứng tiếp không ngớt.

Người hàng xóm trước kia hiếu kỳ hỏi:

- Xưa anh nghèo rớt mồng tơi, mà nay sao lại giàu như vậy?

Anh đắc ý lắc lắc cái đầu, ngạo mạn nói:

- Do ta tế thần thành tâm, thiên thần ban cho ta một cái bình thần, ta muốn thứ gì thì bình thần biến ra thứ đó, cho nên ta mới trở nên giàu có như vậy.

Anh ta chỉ vào y phục trên mình và những thứ chung quanh nói:

- Những thứ này đều là bình thần biến ra cho ta!

Người hàng xóm không tin nói:

- Cái bình này làm sao có thể chứa được nhiều món đồ như vậy, nếu muốn chứa được nhiều đồ như vậy thì phải rất lớn, trên đời này làm gì có cái bình như vậy?

Thấy láng giềng không tin anh ta bèn cầm cái bình ra nói:

- Bình thần không lớn, nhưng mà muốn cái gì thì hiện ra cái nấy.

Người hàng xóm nửa tin nửa ngờ nhìn cái bình nói:

- Vậy ông hãy bảo nó biến ra một cục vàng.

- Đừng nói một cục vàng, mà một núi vàng cũng có thể biến ra được, nhìn đây!

Anh lắc cái bình 3 lần, lập tức một khối vàng lấp lánh hiện ra ở trên bàn. Người hàng xóm nhìn sửng không chớp mắt, cầm khối vàng lên cắn một miếng rồi nói:

- Vàng thật, là vàng thật!

- Còn phải giả? Toàn đều là vàng ròng.

- Có thể biến ra một cô gái đẹp được không?

- Đương nhiên được, muốn 1000 cô gái đẹp cũng được.

Anh ta lập tức lắc cái bình, trong chớp mắt, một cô thiếu nữ đẹp như tiên sa cá lặn xuất hiện ở trong nhà. Người hàng xóm vỗ tay cười nói:

- Thật là một cái bình quý báu! Ông có cái bình này thì muốn gì được nấy!

- Đương nhiên rồi!

Anh ta vô cùng đắc ý:

- Có cái bình báu này thần tiên cũng phải hâm mộ, ta là người giàu có nhất trong cõi đời này.

Nói xong, anh múa tay múa chân nhảy đến ôm cô gái đẹp. Cô gái nhẹ nhàng tránh qua một bên, anh ôm vào khoảng không, may nữa té xuống đất:

- Tất cả đều thuộc về ta, ngươi cũng là của ta.

Anh lại chồm vào cô thiếu nữ. Người thiếu nữ nhìn anh vẫy tay nói:

- Lại đây.

Rồi chuyển mình một cái, cô núp sau bình phong, anh đập đầu vào tấm bình phong, lỡ tay bình thần rớt xuống bể ra thành từng mảnh nhỏ. Theo tiếng âm thanh bể vụn của cái bình, trong nhà bốc lên một làn khói mịt mù. Khói mây tan hết thì tất cả đều tiêu mất: nhà cửa, áo mới, xe ngựa, người đẹp, vàng bạc, người hầu… không còn một thứ gì. Trên cái ghế xiêu vẹo trong ngôi nhà cũ, anh hàng xóm vẫn còn ngồi trên đó, còn anh ta áo quần rách nát như trước, nằm trên mặt đất kêu: “Ai da, ai da, đau đầu quá!”

 

(Phá huỷ bình đức – Thích thị yếu lãm)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tham lam chỉ khiến cho mình mất tất cả những gì mình có, bình thần tên là “bình đức”, tức là ý nói người nào có đức mới có thể hộ trì giữ gìn vật báu này, nhưng mà người làm biếng không có đức, lòng tham không đáy, vì thế không thể có được vật báu này, còn “đức” tức là vật báu của chúng sanh.

 

Đổi mũi cho vợ

 

Ngày xưa, có người lấy một cô vợ rất xinh đẹp, chỉ có tội là cái mũi rất xấu.

Một lần nọ, anh chồng ra ngoài thấy một cô gái rất đẹp, chẳng những dung mạo xinh đẹp, mà lỗ mũi càng dễ thương, vì thế anh ta nảy ra ý định: “Lỗ mũi cô gái này thật là xinh đẹp, nếu ta cắt mũi của cô này về thay cho vợ, có phải vợ ta sẽ hoàn toàn xinh đẹp không?”

Anh nắm chặt người con gái, dùng dao cắt mũi của cô này rồi vội vàng đem về nhà, kêu người vợ ra nói

- Nhanh lên! Nhanh lên! Anh thay cho em lỗ mũi rất đẹp.

Nói xong liền cắt lỗ mũi của người vợ và chắp cho vợ mình cái mũi đẹp ấy, nhưng bất luận là dùng cách nào cũng không thể thay mũi cho vợ mình được. Rốt cuộc, không ráp được mũi mà người vợ lại bị mất mũi càng thêm xấu xí khó coi.

Như thế anh vừa cắt mũi của cô gái khác, vừa cắt mất mũi của vợ mình, không có ích lợi gì, mà còn khiến cho hai cô gái phải chịu sự đau khổ vô ngần.

 

(Đổi mũi cho vợ – Kinh Bách dụ)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Người đời nghe nói các vị Tăng sĩ tuổi lớn, đạo cao đức trọng, được người ta tôn kính cúng dường, bèn nghĩ rằng: “ta nay cũng phải được như các Ngài”, thế là tự khoe khoang, không chút hổ thẹn, tự cao tự đại nói rằng mình có đức hạnh hơn người. Làm như thế chẳng những đã không được danh lợi như mình mong cầu, mà còn làm hại đến phẩm hạnh của mình nữa.

Như cắt lỗ mũi của người khác không thể gắn lên mặt của vợ mình, chỉ làm tổn thương diện mạo vốn có.

Không có thước tấc không thành món đồ vuông tròn, mọi việc đều có định luật của nó. Chỉ biết sự mong ước của mình mà không tôn trọng thực tế khách quan, rốt cuộc chỉ là lòng tốt làm việc xấu, nhìn thấy người có món đồ quý đẹp bèn bất kể tất cả, muốn chiếm món đó làm của riêng mình, cũng không suy nghĩ mình có thể sử dụng được chăng, lòng tham càng lớn, sự tổn thất càng nhiều.

 

Tham tài hoá rắn

 

Ngày xưa, nước Ba La Nại có một người rất ham vàng. Mỗi ngày trời vừa hừng sáng, anh ta liền siêng năng đi khắp nơi làm việc kiếm tiền, không dám nghỉ ngơi. Tất cả tiền bạc cực khổ kiếm được đều dùng mua vàng là thứ anh thích nhất. Tiền kiếm được càng ngày càng nhiều thì số vàng càng ngày càng nhiều. Từng miếng vàng nho nhỏ không thể thoả mãn lòng tham muốn, vì thế anh đem tất cả số vàng đúc thành một cái bình vàng, mỗi ngày đều đem cái bình vàng ra ngắm nghía, không muốn rời tay.

Mỗi ngày đều bỏ rất nhiều thời gian ngắm nghía cái bình vàng nên sự tham ái đối với bình vàng càng ngày càng sâu. Dần dần, cái tâm thưởng thức bình vàng chuyển thành lo lắng – sợ người trộm bình vàng. Vì thế anh bèn ở trong nhà lén đào một cái hầm bí mật giấu bình vàng vào trong đó không cho ai hay biết. Sau khi có được một bình vàng, anh ta lại muốn có nhiều bình vàng, vì thế lại càng đem sức mình làm việc kiếm tiền, không dám nghỉ ngơi đôi phút, lại nhịn ăn nhịn mặc, một xu cũng không dám tiêu xài. Tiền kiếm được đều đem đi đổi vàng, lại đúc thành một bình vàng. Như thế, quên ăn quên ngủ làm việc, dần dần bình vàng tăng đến bảy cái, nhưng ngày đêm lao lực, sức khoẻ của anh càng ngày càng yếu. Sức khoẻ suy nhược của anh không kham nỗi việc nặng nhọc như thế, cuối cùng anh chết đi sau một cơn bệnh nặng.

Do vì sự tham ái bình vàng, nên sau khi chết đi bèn đầu thai thành một con rắn độc quanh quẩn trong hầm chứa vàng. Hàng ngày quyến luyến bảy bình vàng này không rời, vì thế sự tham chấp bình vàng càng sâu nặng. Khi mạng chung, rắn lại chuyển sinh làm thân rắn, cứ như thế đời này qua đời khác đều chuyển sinh làm thân rắn để canh giữ bảy bình vàng trong hầm mà không được sanh lên nhàn cảnh.

Hàng vạn năm trôi qua, người tham vàng vì tâm niệm tham luyến bình vàng mà mãi tái sanh làm thân rắn, ngày này qua ngày khác, rắn cứ loanh quanh trong cái hầm giấu vàng.

Một ngày nọ, cuối cùng đối với cuộc sống và thân rắn cứ mãi không thay đổi này vô cùng mệt mỏi, sinh lòng chán ghét, nghĩ rằng: “Chẳng lẽ ta cứ mãi đời đời kiếp kiếp là thân rắn canh giữ mấy bình vàng này sao? Ta không thể như thế hoài được. Vì tham ái bảy bình vàng, đời đời kiếp kiếp sanh thân làm rắn độc. Ta không muốn làm thân rắn sống những tháng ngày như vậy nữa! Ta phải thay đổi cuộc sống của ta”.

Vì thế rắn độc bèn rời khỏi cái hầm mà mình đã canh giữ vạn năm, bò ra vệ đường, ẩn thân vào trong đám cỏ. Nó phát hiện có người đến gần đám cỏ bèn phát xuất âm thanh để gợi sự chú ý của người đi đường. Người đi đường nghe có tiếng động bèn dừng lại nhìn chung quanh xem âm thanh xuất phát từ đâu, nhưng không nhìn ra tung tích lại cất bước đi, rắn thấy thế nóng ruột bò ra khỏi bụi cỏ, nói với người đi đường rằng:

- Xin ông đến gần một chút, tôi có việc muốn nhờ ông giúp đỡ.

Người đi đường nghe tiếng rắn độc nói giật mình hỏi:

- Ngươi kêu ta đến gần là muốn hại ta chăng?

- Nếu tôi muốn hại ông, ông đến gần mới có thể hại được sao? Phiền ông đến gần tôi một chút.

Nghe rắn độc nói như thế, người đi đường tuy lo sợ nhưng cũng phải đi đến gần rắn. Rắn bèn nói ý định của mình là muốn đem một bình vàng cúng dường Tăng chúng, mong người đi đường giúp nó thành tựu công đức này. Nghe tâm nguyện của rắn, người đi đường rất tán thán khen ngợi, bèn nhận lời giúp đỡ.

Người đi đường theo lời hứa đến chỗ của rắn và gánh con rắn cùng với bình vàng đi đến chùa. Giữa đường có người thấy cảnh tượng người gánh rắn nên cảm thấy hiếu kỳ bèn hỏi người gánh rắn đi đâu vậy? Nhưng người đi đường lại kiêu ngạo không thèm trả lời.

Rắn độc nhìn thấy thái độ kiêu ngạo của người đi đường, không vui, khởi lên lòng sân giận, độc tâm càng bộc phát, định nhả độc phun chết người này, nhưng sau đó lại nghĩ: “Người đó tuy có lòng kiêu ngạo nhưng có ân đối với ta, mình không thể vì sự sân giận mà đem oán đáp ân”. Vì thế, dằn xuống lửa giận. Đi đến chỗ không người, rắn bèn nghiêm khắc trách người đi đường:

- Lòng kiêu ngạo vừa rồi của ông trái ngược với đạo từ bi.

Người đi đường nghe xong vô cùng hối hận, lập tức phát nguyện bỏ đi tâm kiêu ngạo, từ bi khiêm nhường đối đãi với mọi người.

Sau khi đến chùa, người đi đường bèn đem tâm nguyện của rắn trình bạch với các vị pháp sư trong chùa, các vị này vô cùng tán thán, không những nhận sự cúng dường mà còn khai thị Phật Pháp cho rắn nghe:

- Bố thí cúng dường được phước báu giàu sang, keo kiệt bỏn sẻn thì đoạ làm loài quỷ đói. Giữ giới thanh tịnh được sanh vào cõi trời, cõi người vui hưởng mọi sự lành. Thấy Đức Phật và Tăng chúng sanh tâm hoan hỷ chiêm ngưỡng lễ bái thì được thân tướng đoan nghiêm xinh đẹp.

Rắn độc nhìn thấy Tăng chúng thanh tịnh, lại được nghe Phật pháp cam lồ, tâm khai ý giải, trong lòng vô cùng mát mẻ, hoan hỷ, sinh tâm tinh tấn bố thí, quyết định cúng dường các bình vàng còn lại, nên thỉnh một vị Tăng đi theo mình đến căn hầm bí mật lấy sáu bình vàng còn lại cúng đường Tăng chúng.

Vì công đức thanh tịnh thù thắng cúng dường Tăng chúng, nên sau khi rắn chết đi được sanh lên cõi trời Đao Lợi.

 

(Bảy bình vàng – kinh Hiền Ngu)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Chỉ vì quá tham luyến vàng, mà làm rắn độc ngàn năm, lại vì một niệm giác ngộ, khởi tâm thanh tịnh, thành tâm sám hối, cúng dường cho tăng chúng những bình vàng mà trước kia mình tham luyến không rời. Do thiện căn phước đức này mà diệt tội tiêu khiên, siêu sanh lên cõi trời Đao Lợi. Hai kết quả khác nhau quá xa như vậy là do thái độ đối với vàng khác nhau tạo thành: mê luyến thì đoạ, xả bỏ thì được siêu thoát. Câu chuyện này dạy cho ta bài học: có thể xả bỏ thì được an lạc, được tự tại.

 

Khỉ ác chết biển

 

Thuở xưa, trong khu rừng sâu xa xôi có một đám khỉ, tổ tiên của nó nhiều đời sinh sống ở đây. Trong rừng khí hậu ôn hoà, mỗi năm bốn mùa đều có trái cây ngon ngọt nuôi sống chúng. Nước suối chảy róc rách đem lại nước ngọt và cá tươi cho loài khỉ. Cuộc sống của chúng thật bình an và vui vẻ.

Trong đám khỉ có hai con khỉ chúa, mỗi khỉ chúa thống lãnh 500 con khỉ nhỏ. Một con khỉ chúa thì trung hậu hiền lành, quan tâm ái hộ thần dân nên được đàn khỉ tôn kính; còn con khỉ chúa kia thì hung hăng tàn bạo, cứ muốn nuốt luôn 500 con khỉ kia, tự mình thống trị thiên hạ, trở thành đại vương trong núi.

Một ngày nọ, khỉ chúa hung ác đem 500 con khỉ của mình tấn công đàn khỉ kia. Do vì đối phương đồng tâm hiệp lực, dũng mãnh chiến đấu cho nên nó bị đánh tơi bời, thảm hại chạy chốn.

Khỉ chúa ác vẫn không phục, chuẩn bị nuôi dưỡng tinh thần binh lính khỉ, để tấn công tiếp. Nó hướng dẫn đàn khỉ đi đến bên bờ biển, nhọc công suy nghĩ kế hoạch.

Lúc đó gió nổi lên, sóng cuồn cuộn đập vào hòn đá, làn sóng bị đập ra thành từng mảnh vụn và biến thành vô số bọt nước. Không bao lâu bọt nước trắng xoá, càng ngày càng nhiều, dần dần nhô lên giống như một hòn núi nhỏ. Đám khỉ ở trên bờ nhìn thấy cảnh tượng kỳ quan như vậy đều ngạc nhiên ngẩn cả người.

Con khỉ chúa vô cùng ngu xuẩn, nhìn thấy bọt nước càng ngày càng cao cho rằng là núi Tuyết, bèn nói với bầy khỉ rằng:

- Vận may của chúng ta đến rồi! Ta từng nghe nói trên biển có núi Tuyết, trên núi có vô số trái cây ngon ngọt, lại có pháp bảo có thể chiến thắng quân địch. Ta đi thám thính trước. Nếu trong nửa ngày mà ta không trở lại, tức là trong đó có đồ ăn rất nhiều, cuộc sống sung sướng vô cùng, các ngươi có thể đi theo ta. Nếu không phải như vậy ta sẽ trở về lập tức báo cho các ngươi hay.

Đàn khỉ gật đầu khen hay. Con khỉ chúa bèn trèo lên cây, không một chút do dự nhảy vào trong đống bọt nước, kết quả là chết chìm dưới đáy biển. Đàn khỉ trên bờ xoa tay xoa chân, nôn nóng chờ đợi, sau đó không đợi được nữa, chúng nó nhìn thấy khỉ chúa không trở lại nên cho rằng trong núi Tuyết nhất định có vinh hoa phú quý suốt đời hưởng thụ không hết, lại có những trái cây ngon ngọt, chúng ta mau mau đi theo khỉ chúa. Thế là cả bầy cùng nhảy vào trong bọt nước, cuối cùng là chết chìm dưới đáy biển.

 

(Khỉ thiện khỉ ác – Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Trên làm sao thì dưới bắt chước như vậy, khỉ chúa ác độc suốt ngày cứ nghĩ đến việc tranh hơn, giành phần thắng, lại ngu xuẩn vô tri, để đến nỗi một mạng ô hô chết chìm dưới đáy biển. Những khỉ con, khỉ cháu cũng học theo, cuối cùng cũng chôn vùi tánh mạng của mình trong biển cả. Đại khái như lời người ta thường nói “làm lành gặp lành, làm ác gặp ác”.

 

Di Lan kỳ ngộ

 

Thuở xưa, có 500 người thương nhân ra biển buôn bán, thủ lĩnh đoàn là Di Lan, là một người rất thông minh.

Trong biển có cá thần tên là Ma Kiệt, lật úp chiếc thuyền của đoàn thương nhân, khiến đoàn đều chết chìm trong biển cả, chỉ có Di Lan vớ được miếng gỗ, nên được sống sót. Anh ta bập bềnh theo con sóng, cuối cùng lên được bờ đến một chỗ tên Tỷ Ma.

Khi lên được bờ, anh đi vòng khắp nơi xem xét, rồi mới nghỉ ngơi. Sau đó, anh thấy một con đường mòn nhỏ bèn đi theo con đường này, từ đằng xa nhìn thấy trong rừng cây rậm rạp xanh um, có một toà thành bằng bạc, nơi đó có một con sông xinh đẹp bao bọc thành trì, có bốn cô thiếu nữ dung mạo tuyệt trần, đi ra thành đón tiếp, nói:

- Chàng đi đường cực khổ, chúng em rất hoan nghênh chàng đến đây. Đây là thành bằng bạc, trong có cung điện dùng bảy báu vàng ròng, bạc trắng, thuỷ tinh, lưu ly, san hô, hổ phách, xà cừ dựng xây. Chúng thiếp bốn người sẽ là người hầu của chàng, từ sáng đến tối đều nghe lời sai khiển, chỉ mong chàng đừng bỏ nơi này ra đi.

Di Lan bèn vào thành, sống cuộc đời muốn gì được nấy với bốn cô gái đẹp. Ở được vài nghìn năm, Di Lan nghĩ: “Những cô gái này không để cho ta yếu già chắc có nguyên nhân gì”. Nhân lúc bốn cô gái ngủ say bèn lén trốn ra đi.

Anh đi một hồi, từ đằng xa lại thấy có một thành bằng vàng, có tám cô gái xinh đẹp cũng bước ra nghênh đón như bốn cô gái trước vậy, nhưng tám cô gái này đẹp hơn bốn cô trước nhiều. Cung điện trong thành tên là Tiết Mạc do ngọc trai minh nguyệt tạo thành. Sự mỹ lệ đẹp đẽ còn hơn cung điện của bốn cô gái kia. Ở đây hàng vạn năm anh lại bắt đầu hoài nghi tám cô gái này không để cho anh già yếu nhất định là có lý do. Vì thế thừa cơ hội tám cô ngủ say bèn lén trốn đi.

Sau đó, anh lại thấy một toà thành bằng thuỷ tinh, lại có mười sáu cô sắc đẹp tuyệt trần đón tiếp anh, lời nói cũng giống như hai lần trước, mời anh vào thành, sự hoa lệ của toà thành và sắc đẹp của những cô gái này đều hơn những cô gái trước. Ở đây hơn vài vạn năm anh vẫn không thoả mãn. Vì thế thừa cơ các cô ngủ say lại bỏ đi.

Lần này anh gặp một toà thành bằng lưu ly, có ba mươi hai cô gái từ trong thành ra đón tiếp, cung kính phục tùng như những cô gái trước, và mời anh vào thành. Toà cung điện này tên là Tước Đan và báu vật, ca kỹ, đồ ăn thức uống, gái đẹp đều vượt xa những thành trước.

Di Lan cũng giống như những lần trước ở đây rất lâu, sau đó cũng thừa các cô gái ngủ say rồi trốn đi.

Lần này anh lại thấy một cái thành bằng sắt nhưng lại không thấy người đón.

Di La suy nghĩ: “Thành bạc có bốn người, thành vàng có tám người, thành thuỷ tinh có mười sáu người, thành lưu ly có ba mươi hai người, tất cả đều ân cần đón tiếp. Lần này không có ai đón tiếp, chẳng lẽ họ đều là những người rất tôn quý sao”.

Sau khi nhiễu quanh thành một vòng, có một con quỷ mở cửa, Di Lan vào thành, thấy quỷ tên là Câu Dẫn có một cái vòng sắt cháy hừng hực trên đầu. Quỷ đang canh tội nhân bèn lấy vòng sắt đó chụp trên đầu của Di Lan. Di Lan lập tức óc não chảy ra, thân mình cháy đen. Anh chảy nước mắt than rằng:

- Từ bốn cô mỹ nữ đến tám cô, từ tám đến mười sáu, từ mười sáu đến ba mươi hai, từ cung điện Tiết Mạc đến cung điện Tước Đan, ta đều cảm thấy không đủ, cứ tưởng được nhiều hơn, nên mới chịu tai hoạ như vậy. Không biết khi nào mới thoát được nạn này?

Quỷ xem tội nhân trả lời:

- Số năm mà nhận chịu hình phạt này bằng với số năm mà ngươi sống trong các thành, lúc đó mới thoát khỏi hình phạt này.

Sau đó vòng sắt trên đầu Di Lan di chuyển xoay tròn sáu ức năm mới ngừng lại.

 

(Di Lan bổn sanh – kinh Hiền Ngu)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tục ngữ nói tai hoạ không gì lớn hơn phóng túng theo lòng dục của mình, điều ác không gì lớn hơn nói lỗi của người. Ác là cọp dữ, dục là vực sâu. Không có bữa cơm nào miễn phí. Lòng dục của con người thì vô cùng vô tận. Di Lan trong câu chuyện, gặp đại nạn không chết, lại có phước ở trong thành bạc, nhưng lòng ái dục tham lam bành trướng phát triển, từ thành bạc đi đến thành vàng, từ thành vàng đi đến thành thuỷ tinh rồi đến thành lưu ly, cuối cùng anh rơi vào thành sắt quỷ môn, bản thân mình hưởng thụ bao nhiêu năm thì phải chịu tội bấy nhiêu năm ở thành sắt này.

 

Vua bồ câu tự cứu

 

Xưa có bồ câu chúa, hướng dẫn thuộc hạ của mình là 500 con bồ câu đến vườn hoa của nhà vua tìm kiếm thức ăn. Quốc vương nhìn thấy bèn sai người giăng lưới bắt hết cả đàn. Quốc vương ra lệnh đem đàn bồ câu nhốt vào trong lồng, dùng gạo ngon và thịt nuôi chúng lại sai người chuyên nuôi dưỡng chúng. Bồ câu chúa bị nhốt trong vào trong lồng, một lòng niệm Phật sám hối tội lỗi của mình, khởi lên những tâm niệm lành, hy vọng giải thoát đàn bồ câu. Nó nói với đàn rằng:

- Trong kinh Phật dạy, giới tham là giới quan trọng nhất, người do tham mà được phú quý, giống như người khát đói mà được thức uống độc vậy, chỉ được vui vẻ một thời, mà bị khổ não rất lâu. Các ngươi chỉ cần tuyệt thực, không ăn những thức ăn ngon này thì có thể bảo toàn tánh mạng.

Đàn bồ câu trả lời:

- Đã bị nhốt vào trong lồng thì còn có hy vọng gì nữa?

Bồ câu chúa trả lời:

- Làm trái nghịch lời dạy của Đức Phật, tâm lúc nào cũng chứa đầy tham lam thì sẽ không bảo toàn được thân mạng.

Thế là tự mình tuyệt thực, thân thể mập mạp càng ngày càng ốm gầy đến lúc có thể từ trong khe của lồng bay ra được, bèn nói với đàn chim:

- Nếu tuyệt thực không ăn thì sẽ được như ta vậy.

Nói xong bèn bay ra khỏi lồng.

 

(Bổn sanh vua bồ câu – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Giảm mập mà có thể cứu được mạng mình thật là một chuyện lạ kỳ. Câu chuyện này dạy cho chúng ta bài học là không nên có nhiều tham dục. Thật vậy, người vì tiền của mà chết, chim vì thức ăn mà mất mạng. Lòng tham dục là nhược điểm yếu nhất trong con người. Xưa nay trong ngoài biết bao nhiêu người không vượt ra khỏi sự mê hoặc của danh lợi ái dục mà thân bại danh liệt. Nhưng mà điều đáng buồn là, mặc dầu đã có xe trước đổ, nhưng vẫn có không ít người đang tiếp tục bước vào vết bánh xe đổ đó.

 

Vua Đảnh Sanh

 

Ngày xưa, có một quốc vương tên Đảnh Sanh, là một nhà vua rất có thế lực ở thời đó. Các nước ở đông, nam, tây, bắc đều thuần phục. Vua Đảnh Sanh có chuyển luân bảy báu, có voi màu trắng, có ngựa chiến màu xanh biếc, có hạt châu minh nguyệt, có vợ đẹp như tiên, có quan văn quan võ tài năng xuất chúng. Ngoài ra vua còn có ngàn đứa con trai khôi ngô tuấn tú, mỗi mỗi đều thông minh bác học, sức mạnh điều phục mọi người, trí dũng song toàn. Quốc vương thường tự hào điều đó. Một ngày nọ, vua nghĩ rằng: “Đất nước của ta đây ngang dọc 32 vạn dặm, mùa màng sung túc, dân chúng giàu có, sự giàu sang của ta thật là trên đời hiếm. Tuy được như thế nhưng ta vẫn mong vua trời lại có thể ban phước cho ta, mưa một trận vàng bạc bảy ngày bảy đêm, nếu có thể ân tứ cho ta như thế thật là quá tốt đẹp”.

Vua trời Đế Thích bèn thoả mãn lời nguyện của nhà vua, mưa xuống vàng bạc, khắp nơi trong nước đều lấp lánh vàng bạc. Vua Đảnh Sanh mặt rồng hoan hỷ, dân chúng chúc mừng lẫn nhau, được sự vui mừng và đầy đủ chưa từng có. Qua vài ngày vua Đảnh Sanh lại nghĩ: “Tuy đất nước ta ở phía tây, 32 vạn dặm, lại có bảy báu, ngàn người con văn hay võ giỏi, vua trời Đế Thích ban mưa vàng mưa bạc chưa từng thấy, nhưng ta nghe nói, phương nam có cõi Diêm Phù Đề ngang dọc 28 vạn dặm, dân chúng nơi đó thiếu ăn thiếu mặt. Nếu được cõi ấy, chẳng phải là tốt đẹp hay sao?”. Nghĩ xong Đảnh Sanh bèn cởi bánh xe vàng, bay đến phía nam, theo sau nhà vua là bảy báu và quân đội, nhanh như điện chớp đến cõi Diêm Phù Đề. Vua quan và dân chúng nơi này sớm đã nghe danh vua Đảnh Sanh, nên khi vua vừa đến tất cả đều thuần phục. Vua Đảnh Sanh lại bỏ thời gian mấy năm trị lý đất nước này rất tốt đẹp, đất nước được giàu mạnh, dân chúng an cư lạc nghiệp, no cơm ấm áo.

Nhà vua lại nghĩ: “Ta nay có đất đai ở phía tây và phía nam, nghe nói phía đông có cõi Phách Vu Kiến ngang dọc 36 vạn dặm. Nơi đó dân chúng no cơm ấm áo, muốn gì có nấy, thật là một cõi nước giàu mạnh. Nếu ta có thể chiếm được cõi nước này thì hay biết bao!”

Vua bèn cưỡi trên bánh xe vàng bay về hướng đông, bảy báu và quân đội cũng theo sau lưng bay về cõi Phách Vu Kiến. Nhà vua và dân chúng nơi đó đều hoan nghênh Ngài. Trị lý vài năm, quốc gia thái bình thịnh trị, Vua Đảnh Sanh nghĩ rằng: “Ta nay có ba cõi nước ở ba cõi nước ở đông tây, nam. Ở phía bắc là cõi Uất Đan ta nên chiếm lấy”. Vừa nghĩ như vậy bánh xe vàng lập tức đem nhà vua bay đến phương bắc, bảy báu và đại quân cũng theo đến đó. Vừa vào nước Uất Đan, thì thấy bốn bề ruộng lúa xanh ngắt, lại thấy các thứ cây báu, các thứ y phục mềm mại hoa lệ, các thứ kỳ trân, dị bảo treo trên những cây báu. Vua Đảnh Sanh và tuỳ tùng ăn thứ gạo cơm thơm phưng phức, mặc những thứ y phục hoa lệ, trang sức bằng những đồ quý báu, cuộc sống rất vui vẻ.

Vài năm sau, vua Đảnh Sanh lại nghĩ: “Ta nay đã được bốn phương thiên hạ, trên đời này không còn gì đáng truy cầu. Ta nên đi đâu đây? Cần phải lên cõi trời để hưởng sự sung sướng ở đây!” Nhà vua vừa nghĩ như thế, bánh xe chuyển luân liền bay vút lên trời, thất bảo và quân đội theo sau. Vua trời Đế Thích thấy vua Đảnh Sanh bèn vui mừng bước xuống ngai vàng đón tiếp:

- Nghe danh Ngài đã lâu, rất muốn gặp mặt Ngài nhưng không có dịp. Nay Ngài đến đây thật là hân hạnh.

Nói xong liền nắm tay vua Đảnh Sanh dắt lên ngai vàng nhường cho một nửa toà ngồi.

Vua Đảnh Sanh ngồi xong mới quan sát xung quanh thấy cung điện của vua trời Đế Thích toàn dùng vàng ròng, bạc trắng, thuỷ tinh, lưu ly, hổ phách, xa cừ, san hô, trân châu, toàn là những vật báu xây dựng nên, so với tất cả cung điện của mình không biết đẹp hơn bao nhiêu lần, trong tâm vô cùng hâm mộ.

Vua nghĩ: “Ta đã có bốn phương thiên hạ, vàng ngọc châu báu không biết bao nhiêu mà kể, sự giàu có sang trọng đã thật là hiếm có. Nhưng cung trời Đế Thích quá huy hoàng, lộng lẫy. Nếu có thể khiến cho vua trời Đế Thích chết đi cho ta kế thừa ngai vàng thì mới thật khiến cho ta vui sướng nhất”. Ác niệm vừa sanh thì lập tức bị vua trời Đế Thích đưa trả về trong cung điện của mình. Sau đó lại bị bệnh nặng, các vị danh y giỏi nhất nước cũng đành thúc thủ. Các quan đại thần đến thăm viếng, thưa hỏi:

- Tâu đại vương! Bệnh của Ngài đã vô cùng nguy hiểm. Nếu có gì bất trắc, xin thưa Ngài có di chúc gì chăng?

Vua Đảnh Sanh lúc này đã tỉnh ngộ, trả lời rằng:

- Nếu sau này có ai hỏi vua Đảnh Sanh làm sao mà chết, các ngươi trả lời rằng vì bệnh chứng bệnh “Tham lam” bất trị mà mất mạng. Hãy ghi lại lời giáo huấn của ta để nhắc nhở cho con cháu “Tham lam là lửa đốt thiêu thân, vậy cẩn thận quyết không được tham lam”.

 

(Kinh Đảnh Sanh Thánh vương)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Vua Đảnh Sanh có chí hướng nắm trọn cả thiên hạ, nhưng khi đắc ý rồi thì sanh lòng tham, cuối cùng phải bệnh mà chết. Bậc vua chúa làm gương cho thiên hạ thì cần phải có tấm lòng khoan dung rộng lớn và có khí phách đứng ngồi không loạn, nếu muốn sống một cách an lạc thì phải làm cho được điều này: trong những món tham dục, chúng ta không tham không dục, trong những người tham dục, chúng ta trụ ở không tham không dục.

 

Nước La Sát

 

Thủa xưa, Diêm Phù Đề là một đất nước quốc thái dân an, thương mại phát triển. Những người thương nhân ở đây không thoả mãn với việc buôn bán trong nước nên thường đi biển buôn bán. Có một lần, ra khơi không lâu, họ gặp sóng to gió lớn, không cách nào điều khiển con thuyền, chỉ đành trôi theo dòng nước. Chiếc thuyền trôi đến nước La Sát, ở nước này toàn là nữ nên gọi là la sát nữ. Đây là những phụ nữ có phép thuật ăn thịt người. Sư Tử là người trẻ nhất trong đám thương nhân, anh trở thành chồng của một la sát nữ, và có 2 đứa con trai với người này.

Một ngày nọ, Sư Tử đi đến phía nam nhìn thấy một ngôi tử thành không có cửa. Trong thành sắt giam những người nam nhân đáng thương. Họ cũng như anh, là những thương nhân ở Diêm Phù Đề, ra biển buôn bán và gặp cảnh ngộ như chàng. Họ cũng làm chồng những cô gái này, họ cũng sanh con trai con gái. Nhưng sau đó phát hiện các cô là La sát nữ ăn thịt người. Lúc mới đến, họ có 500 người, nhưng khi bị giam vào thành sắt chỉ còn 250 người. Những người khác đều bị ăn thịt, còn những đứa con mà La sát nữ sinh ra cũng bị ăn thịt không còn một đứa. Sư Tử biết đoàn thương nhân đã lọt vào tay ma quỷ. Làm sao thoát khỏi hòn đảo trơ trọi ở giữa biển cả mênh mông này?

Những người trong thành sắt bảo với anh ta, mỗi năm ngày 15 tháng 4, khi mà nhật nguyệt và các tinh tú hội họp, thì sẽ có một con ngựa thần rất cao lớn xuất hiện. Ngựa thần ngừng ở chỗ nào thì nơi đó sẽ có gạo thơm phưng phức, thần ngựa ăn gạo thơm xong, chạy đến bên bờ lộ ra nửa thân mình, bắt đầu quay mặt ra biển nói 3 lần: ai muốn vượt qua biển ải này, ta có thể đưa các ngươi đến bờ kia một cách an toàn. Nếu trèo kịp lên lưng ngựa thần thì có thể an toàn trở về nước Diêm Phù Đề, đây là con đường duy nhất .

Sư Tử vào ngày 15 tháng 4 bèn nói cho đoàn thương nhân biết điều bí mật mà anh đã giấu trong tâm đã lâu. Đoàn thương nhân quả nhiên thấy một con ngựa thần, chắp tay làm lễ hy vọng ngựa thần đem mình vượt qua biển cả đến bờ bên kia trở về nước Diêm Phù Đề. Ai nấy tranh nhau trèo lên lưng ngựa, ôm chặt cổ, nắm chặt đuôi vì sợ rớt xuống.

Vào lúc này, các cô la sát phát hiện chồng mình không thấy, lập tức nghĩ đến ngựa thần, ôm con chạy ra bờ biển. Ngựa thần hí lên một tiếng dài, chuẩn bị bay lên. La sát nữ khóc kêu họ trở lại. Nhiều thương nhân tâm mềm yếu lập tức nhảy xuống, ôm lấy vợ con. Chỉ còn có Sư Tử, anh không nhúc nhích, ôm chặt ngựa thần, bay lên không trung. Vợ Sư Tử quyết tâm không tha, nàng ôm 2 đứa con, theo ngựa thần vượt biển lớn đuổi theo Sư Tử. Đến nước Diêm Phù Đề, La sát nữ tìm đến quốc vương kể rõ sự tình. Nhìn thấy sắc đẹp của nàng, quốc vương đã say đắm bèn đem La sát nữ rước vào hậu cung. Chỉ trong một đêm quốc vương, hoàng hậu, thứ phi, cung nữ cả hoàng cung đều bị ăn sạch. Các quan đại thần nói với Sư Tử:

- Ngươi đã dẫn về La sát nữ ăn thịt quốc vương, đất nước lại chưa lập thái tử, vậy từ đây ngươi lên làm quốc vương của chúng tôi.

Như thế, Sư Tử làm quốc vương của nước Diêm Phù Đề. Sau khi lên ngôi vua, việc đầu tiên chàng làm là tổ chức một đội quân hùng mạnh vượt biển tiêu diệt đám la sát nữ cứu thoát đoàn thương nhân đem về. Nước La Sát 4 bề biển cả bao quanh, đất đai phì nhiêu, khí hậu trong lành thích hợp sinh sống, là một nơi vô cùng tốt đẹp. Sau khi tiêu diệt đám la sát nữ, Sư Tử hướng dẫn người đến nơi đây, họ siêng năng trồng trọt, xây dựng một đất nước hùng mạnh, người ta gọi nước này là nước Sư Tử.

 

(Nước Tăng Già La – Đại Đường Tây Vực ký quyển 11)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Con người rất dễ bị thanh sắc mê hoặc, vì thế rất dễ đoạ vào ác đạo, sanh ra niệm tham niệm ác. Muốn trừ bỏ những niệm tham ác cần phải có năng lực quan sát tinh tế, bỏ đi những lòng tham. Sư Tử vì có khả năng xem rõ những cạm bẫy sau lưng những cô gái đẹp, những hiện thực tàn khốc sau lưng những lời ngon ngọt, mới có thể không động tâm nên được bảo toàn tánh mạng.

 

Chủng Đức

 

Một lần Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến thành Chiêm Bà, có một vị Bà la môn tên là Chủng Đức đến tham bái. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thần thông quảng đại, vừa nhìn là đã thấu suốt tâm niệm của người, Ngài nhìn thấy rõ Chủng Đức tự cho rằng mình huyết thống chính thức, học thức phong phú, tâm đầy lòng ngạo mạn nên cố ý hỏi rằng:

- Một người nên có những điều kiện nào mới có thể trở thành một Bà la môn chân chánh?

Chủng Đức lập tức trả lời:

- Cần đủ 5 điều kiện, thứ nhất, phải có huyết thống chính thức, thứ 2 phải có tri thức phong phú, thứ 3 phải có ngũ quan đoan chánh, thứ 4 phải nghiêm trì giới luật đã thọ, thứ 5 phải có trí tuệ thông suốt.

Đức Phật nghe xong cười:

- Cho là ngươi nói đúng. Nhưng nếu bỏ đi một điều trong những điều kiện đó thì có thể gọi là Bà la môn chân chánh không?

Chủng Đức suy nghĩ một hồi rồi trả lời:

- Nếu cần bớt đi một điều thì đó là điều thứ nhất, 4 điều còn lại cũng có thể khiến người trở thành Bà la môn chân chánh.

Đức Phật lại hỏi:

- Lại có thể bỏ thêm một điều chăng?

Chủng Đức suy nghĩ một hồi rồi nói:

- Nếu một người có ngũ quan đoan chánh, trí tuệ thông đạt, trì giới đầy đủ, cũng có thể gọi là Bà la môn chân chánh, như thế điều thứ 2 cũng có thể bỏ được .

Đức Phật cười hỏi:

- Có thể bỏ thêm một điều được chăng?

Lần này Chủng Đức suy nghĩ thật lâu, cuối cùng nói:

- Nếu một người giữ gìn giới luật, trí tuệ thông đạt thì cũng có thể là một Bà la môn chân chánh.

Những người Bà la môn bên cạnh nghe xong đều lên tiếng nghị luận, họ cho rằng như thế không thể trở thành Bà la môn chân chánh được. Chủng Đức bèn đưa ra ví dụ người cháu của mình tên là Ma Nạp, người này hình dung tuấn tú, học thức phong phú, đúng dòng huyết thống, phù hợp 3 điều kiện trên. Nhưng nó sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo. Chủng Đức để cho mọi người bình luận, người như thế có thể được gọi là Bà la môn chân chánh không? Xung quanh ai cũng lắc đầu. Chủng Đức nói:

- Chính vì như thế, 3 điều trước có thể bỏ đi.

Đức Phật lại hỏi:

- Hai điều sau cùng có thể bỏ thêm một điều chăng?

Chủng Đức vội vàng lắc đầu nói:

- Không được, không được. Kiên trì giữ gìn giới luật và trí huệ tương quan mật thiết với nhau, phải đủ cả 2 không thể khuyết một.

Đức Phật nói:

- Lành thay! Lành thay! Chỉ có kiên trì giữ gìn giới luật mới tăng trưởng trí huệ, có trí huệ mới có thể nghiêm trì giới luật, nên Bà la môn cần đủ 2 điều kiện nghiêm trì giới luật và trí huệ.

 

(Kinh Chủng Đức – Kinh Trường A Hàm)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Nho gia cũng có câu: “Giữ gìn lý trời, bỏ đi lòng dục”. Trì giới nên bỏ bớt đi lòng dục, tăng trưởng trí tuệ. Lý và dục không cùng một con đường, dục vọng nhiều thì không thể làm sáng lý trí, nên sanh ra chướng ngại của thức; lý trời sáng thì lòng dục của người tự tiêu diệt. Khổng Tử nói người thượng trí không bị lòng dục làm cho mê hoặc, “bốn mươi không bị mê hoặc” tức là đạo lý này vậy.

 

Chương bốn

Giữ lòng
trong sáng đạm bạc

 

Hao tài tiêu nạn

 

Xưa có một người rất giàu có, thường đem tiền của bố thí cứu giúp những người nghèo khổ. Anh có một người bạn, thấy anh siêng năng cần kiệm, không hưởng thụ mà đem gia tài quanh năm cực khổ làm ăn mới có được bố thí cúng dường Tam bảo và cứu giúp những người nghèo khổ, cảm thấy đáng tiếc, bèn nói với anh ta rằng:

- Bạn đem gia tài cúng dường Tam bảo, làm những việc công đức bố thí giúp người dường như quá nhiều rồi.

Anh ta trả lời:

- Không nhiều! Không nhiều! Tôi nghe giáo pháp của Đức Phật đều ghi nhớ trong tâm, không dám một ngày quên đi. Đức Phật nói con người từ vô thuỷ kiếp đến nay luân hồi trong 6 đường, chịu những sự đau khổ sanh tử, thời gian khó mà tính cho hết. Nếu tính như vậy thì việc bố thí cúng dường của tôi mỗi ngày không đến một đồng, thì có gì là nhiều. Đức Phật nói: được tất cả tài sản vàng bạc châu báu ở tất cả đời này cũng không bằng nghe một câu Phật pháp quý báu, tôi tin những lời nói của Đức Phật cho nên thường bố thí cúng dường, cứu giúp những người nghèo khổ. Chất chứa tài sản nhiều chẳng những không thể thoát ly sự sanh tử, mà còn mang tai hoạ. Chi bằng chúng ta đem tài sản bố thí cúng dường tích chứa công đức là hay hơn hết.

Anh hỏi ngược lại người bạn:

- Bạn có nghe nói trong rừng có một loài chim Yết? Lông cánh rất đẹp, cho nên vô cùng yêu mến, một khi bị những cọng cỏ hoặc bị thứ gì dính vào thì nó không dám cử động, sợ làm tổn thương lông cánh đẹp đẽ của mình. Vì thế, dễ dàng bị người thợ săn bắt được, không những lông cánh bị nhổ sạch, thậm chí tánh mạng cũng không bảo toàn. Loài chim này vì thương tiếc lông cánh mà gặp hoạ diệt thân. Người yêu quý tiền bạc như mạng sống có khác gì loài chim này? Lại có loài trâu lùn, cũng vì yêu quý cái đuôi đẹp của mình mà bị người giết. Trên đời này không ít người ngu, chỉ biết kiếm tiền, lòng tham không bờ bến, lại không biết hoạn nạn càng ngày càng gần, nếu không kịp thời tỉnh ngộ, khi vô thường đến thì “không đem đi được thứ gì, chỉ có nghiệp báo tuỳ thân”. Lúc này tất cả tài vật đều cho người khác hưởng dụng. Đã là như vậy sao khi sống không gieo trồng ruộng phước để tránh những hoạn nạn sau này?

Anh lại nói:

- Bạn bè thân thích hay trách tôi đem tiền của bố thí cúng dường không giữ lại cho con cháu. Kỳ thực con cháu tự có phước của nó, không cần chúng ta phải lo lắng. Tôi lại nói một ví dụ: con ong ngày ngày tìm mật, cực khổ tạo thành mật ngọt làm thức ăn cho ong con. Kết quả bị người dùng lửa hung đốt lấy mất, đuổi sạch đàn ong ra khỏi tổ, không những thế, mà trứng cũng bị giết sạch. Con ong vì tạo ra mật mà chiêu vời hoạ, có khác gì với người tích chứa của cải mà chiêu vời hoạ? Tôi sở dĩ đem tiền của bố thí cúng dường, xa rời sắc dục cũng tức là xa rời tai hoạ. Người đời ngày đêm bận rộn, lao tâm khổ trí tất cả là vì tiền tài. Nên biết cuộc đời vô thường, một khi mạng hết, thì tất cả tài vật một mảy may cũng không thể đem theo hưởng dụng.

 

(Kinh Tam huệ)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Trong kinh Phật thường nói đến những người làm nô lệ cho tiền của, vì không có gieo trồng ruộng phước lại không thể buông bỏ tài sản, cho nên sau khi chết đoạ vào trong loài súc sanh, làm chó dữ, làm rắn độc ngày đêm canh giữ tài vật của mình, không thể giải thoát. Thật đúng như lời người nhà giàu ưa bố thí trong chuyện nói, tiền tài là vật ngoài thân, khi sanh ra không mang đến, khi chết không đem đi. Nếu trong cuộc sống hữu hạn của chúng ta, cứ mãi giờ giờ phút phút vì những thứ này mà phiền não âu lo, thậm chí hy sinh cả tánh mạng, thật đáng thương như loài chim vì thương quý lông cánh của mình mà mắc nạn. Nên biết trong cuộc sống còn có những món tốt đẹp hơn, như thân tình, tình bè bạn… những cảm tình thân quý này há không đáng cho người trân trọng giữ gìn yêu mến hơn những món vật ngoài thân sao? Bố thí là một trong lục độ vạn hạnh của Bồ tát, thường hành bố thí mới có thể viên mãn phước đức của mình.

 

Vua Anh vũ tự ngộ

 

Thuở quá khứ, Bồ Tát làm vua Anh vũ, soái lĩnh cả đàn gồm ba ngàn chim Anh vũ, đàn chim suốt ngày đi theo vua, tận tâm tận lực hầu phụng chủ. Trong đó có hai chú chim Anh vũ sức mạnh hơn đàn, lại nghĩ ra một trò chơi để cho vua Anh vũ vui: Chúng tìm một cây tre, mỗi đứa ngậm một đầu. Vua Anh vũ ngồi trên chiếc xe này, bốn phương bay lượn vui chơi. Vua Anh vũ thường ngồi trên xe này, trên, dưới, trái, phải, trước, sau, mỗi bên có 500 chim, sáu mặt cộng là 3000 chim theo hầu. Đàn Anh vũ không những làm cho vua vui, mà còn thường đi tìm các thức ăn ngon để dâng lên vua chim.

Vua Anh vũ thầm nghĩ: “Bay lượn trên trời rất thích thú, nhưng không chút sợ sệt như thế, vui đùa giỡn chơi chỉ làm cho đức hạnh bại hoại, đoàn Anh vũ ngày ngày theo hầu ta, không biết là chân tâm hay là giả ý. Ta phải nghĩ ra cách thử lòng chúng xem”. Vì thế bèn thác bệnh không muốn ăn uống, lại giả chết đi. Cả đàn chôn nó một cách sơ sài rồi bỏ đi. Vua Anh vũ bay lên tự mình đi kiếm thức ăn, còn bầy chim lại đi tìm Vua Anh vũ ở núi khác, nói:

- Đại vương của chúng tôi đã chết rồi, chúng tôi mong được làm thần dân của Ngài.

Vua Anh vũ đó nói:

- Nếu đại vương của các ngươi đã chết thì đem thi thể đến đây để chứng minh, nếu đúng như vậy, ta sẽ thu nhận các ngươi làm thần dân của ta.

Bầy chim Anh vũ bèn đi tìm thi thể của vua chim, giật mình khi phát hiện thi thể của vua không còn, bèn khắp nơi tìm kiếm, thấy được rồi lại cúng dường hầu hạ như xưa.

Vua chim Anh vũ nói:

- Ta chưa chết, các ngươi đã bỏ ta đi không quản đến. Chư Phật thường dạy rằng: Trên đời không thân thích, chỉ có Phật pháp đáng cho ta tin tưởng nương tựa. Các vị Sa môn cho rằng râu tóc là thứ dơ bẩn làm rối loạn tâm trí, cho nên buông bỏ nó, mong không còn dục vọng nữa. Các ngươi vui chơi náo nhiệt, dâm thanh loạn tánh như thế, bỏ mất đi tâm trí. Bậc Thánh mới là độc nhất vô nhị, đức hạnh, chí nguyện đầy đủ.

Nói xong bèn bay đi, tìm một nơi u tịnh, bỏ đi những niệm trần tục, không còn ham thích vui chơi mà định tâm định tánh, vì thế các phiền não ô trược đều đoạn tận.

 

(Bổn sanh vua Anh vũ – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tuy nói ngồi dưới gốc cây rất mát mẻ, nhưng một khi cây ngã xuống, thì làm cho chim thú tiêu tán. Đương nhiên cũng không phải chỉ có xuất gia tu hành mời là phương pháp duy nhất giải quyết vấn đề. Cho nên có câu “hoa đẹp không thường nở, cảnh đẹp không thường còn”, vì thế khuyên người đời chớ nên tham luyến những vinh hoa phú quý, vì những cảnh vinh hoa phú quý này trong chớp mắt trở thành phù vân, tiêu tan như sương khói. Nếu cứ mải mê luyến thì sẽ tự làm thương tổn thần khí, thương tổn tinh thần.

 

Sám hối được đẹp

 

Thời Đức Phật có vua Ba Tư Nặc, các cô con gái của nhà vua đều rất xinh đẹp, duy có công chúa Lại Đề bất hạnh nên sinh ra đã xấu xí vô cùng, da dẻ sần sùi, khó coi giống như quỷ Dạ Xoa không khác. Ai mà gặp Lại Đề đều giật mình.

Vua Ba Tư Nặc vì không muốn dân chúng sợ hãi khi gặp công chúa Lại Đề và cũng không để cho mình bị chê cười mất mặt, nên nhốt nàng ở trong thâm cung không cho gặp ai. Vì thế công chúa từ nhỏ đến lớn, chưa hề gặp mặt một người lạ nào.

Lại Đề càng ngày càng lớn lại càng xấu xí. Đến tuổi cặp kê, vua Ba Tư Nặc vì việc trăm năm của con mà lo lắng buồn rầu. Nếu gả Lại Đề cho người có chủng tộc cao quý, đối phương nhất định không chịu vì cô quá xấu. Nếu là người tầm thường, thì thân phận không tương xứng, dù sao đi nữa cũng là công chúa dòng dõi quý tộc. Cứ như thế vua Ba Tư Nặc suy nghĩ hồi lâu, phiền não không biết bao ngày, nhưng không tìm ra được một giải pháp nào khả dĩ gọi là tốt đẹp. Cuối cùng, Vua Ba Tư Nặc sai người hầu bí mật ra ngoài thành dò xét, kiếm con trai của những gia đình trưởng giả nhưng cảnh nhà sa sút, đời sống khó khăn, đưa người thanh niên ấy về cung.

Người hầu cố công tìm kiếm ngày này sang ngày khác cuối cùng mới kiếm được con trai của một vị trường giả đang xin ăn ở trên đường, liền đem chàng về hoàng cung.

Vua Ba La Nặc nhìn thấy chàng trai quần áo rách mướp nhưng mặt mũi sáng sủa thanh tú, bèn hỏi rằng:

- Ta có một đứa con gái đã đến tuổi lấy chồng nhưng rất xấu xí, ta dự định gả cho ngươi và còn cho thêm số hồi môn lớn, không biết ngươi có bằng lòng chăng?

Con người trưởng giả cung kính trả lời:

- Phàm là mệnh lệnh của quốc vương, hạ thần tuyệt đối phục tùng.

Vì thế quốc vương gả Lại Đề cho chàng, lại xây thêm một toà lâu đài cho hai người, đồng thời căn dặn phò mã nhất quyết không để Lại Đề tiếp xúc với mọi người. Ra vào cung điện quyết phải khoá cửa.

Công chúa Lại Đề từ thâm cung này đổi sang toà thâm cung khác vẫn sống cuộc sống u nhàn như trước, còn chàng trai nghèo, từ cuộc sống đói khát một bước trở thành phò mã hưởng thú vinh hoa phú quý. Bà con quyến thuộc, bạn bè xưa kia lạnh nhạt với chàng nay đều tìm đến kết giao. Vì thế mỗi ngày đều có tiệc tùng. Nhưng mỗi lần yến tiệc chàng chỉ đi một mình không giống như những người khác có đôi có cặp, đem vợ con đi theo. Cứ như thế qua một thời gian mọi người đều tò mò: Tại sao không bao giờ thấy công chúa theo chồng dự tiệc?

Mọi người bèn nghĩ ra một diệu kế: Trong một lần yến tiệc, khi vui say sẽ có người đề nghị buổi yến tiệc lần sau mỗi người đều phải đem vợ con đến dự, ai không đem vợ con đến sẽ phạt tiền, mọi người đều phụ hoạ theo, chỉ có phò mã không nói tiếng nào.

Yến tiệc lần sau lại đến, con vị trưởng giả vẫn đơn độc một mình dự tiệc và cam tâm chịu bị phạt. Vì thế mọi người lại lần nữa đề nghị:

- Lần yến tiệc ngày mai nếu ai không đem vợ con đến dự thì sẽ phạt nặng hơn.

Nhưng nhiều lần sau đó, phò mã vẫn đơn độc một mình đi dự tiệc, cam tâm chịu phạt. Như thế, mọi người đều khởi lên lòng nghi hoặc lớn, họ bàn tán cả ngày, đi đến một kết luận: “Công chúa nếu không phải là tuyệt sắc giai nhân, thì cũng là xấu như ma”. Lòng hiếu kỳ đã thôi thúc mọi người quyết định tìm cho được Lô Sơn chân diện mục của công chúa. Còn phò mã, yến tiệc xong trở về than thở nói với công chúa rằng:

- Nhiều lần yến tiệc, tôi đều vì nàng mà bị phạt!

Công chúa ngạc nhiên hỏi:

- Tại vì em ? Tại sao vậy ?

Phò mã bèn đem chuyện mọi người đề nghị dẫn vợ đi dự tiệc và lời dặn dò của nhà vua kể cho công chúa nghe. Công chúa nghe xong, trong lòng vô cùng buồn bã, xấu hổ: “Không biết xưa kia ta đã tạo ác nghiệp gì mà nay có quả báo như thế thật là xấu hổ!”

Từ đó, công chúa lúc nào cũng niệm Phật, thành tâm sám hối, xin cho mình có thân tướng đẹp đẽ.

Một ngày nọ, Phò Mã vẫn một mình đi dự tiệc, Lại Đề một mình ở trong thâm cung càng khẩn thiết sám hối tội lỗi của mình nguyện Phật từ bi thương xót nhiếp thọ.

Vì lòng chí thành khẩn thiết của Lại Đề, cảm động Đức Phật bèn từ trong mặt đất xuất hiện. Đầu tiên mới xuất hiện, Lại Đề nhìn thấy tóc của Đức Phật, tâm sinh hoan hỷ, đầu tóc của mình cũng theo đó mà biến thành đen mượt, rồi thứ đến nhìn thấy trán, lông mi, mắt, mũi, cho đến toàn thân, Lại Đề sanh lòng hoan hỷ vô lượng, tự nhiên thân hình xấu xí của công chúa từ từ trở nên xinh đẹp trang nghiêm, làn da sần sùi đen đúa trở nên mịn màng, lúc này Lại Đề thật đẹp như tiên nữ giáng trần.

Trong buổi tiệc, mọi người ân cần mời rượu phò mã, cứ ly này đến ly khác, quả nhiên không bao lâu phò mã bị chuốt say mèm không còn biết gì cả. Mọi ngươi nhân đó lấy chìa khoá trong người phò mã, đi đến hoàng cung của phò mã và công chúa. Khi đến nơi, họ vội vàng mở cửa ra xem, vừa nhìn thấy ai nấy đều trợn mắt, ngẩn người, trước mắt là một vị mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành trên đời có một không hai, không biết là tiên nữ hay là công chúa. Họ không dám nấn ná lâu, khẩn trương đóng cửa, và quay lại buổi tiệc, trả chìa khoá lại cho phò mã lúc còn chưa tỉnh.

Không bao lâu phò mã tỉnh lại, chỉ thấy trời đã khuya, vội trở về cung điện của mình, cửa cung vừa mở, phò mã cũng ngơ ngác:

- Cô là ai ? Tại sao lại ở đây ?

Lại Đề mỉm cười trả lời :

- Em là vợ Lại Đề của chàng đây.

Công chúa có nói như thế nào phò mã cũng không dám tin đây là vợ của mình. Vì thế Lại Đề bèn đem việc mình thành tâm sám hối, được Phật từ bi thương xót đến hoá độ, khi được nhìn thấy Như Lai, thân hình biến hoá, thay đổi như thế này. Phò mã nghe rồi rất vui mừng, bèn đem công chúa đi gặp vua Ba Tư Nặc, nhà vua biết được câu chuyện cũng vui mừng vô hạn.

 

(Cô gái xấu Lại Đề con vua Ba Tư Nặc – Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

“Sám hối” là một môn thuốc diệu dược làm thăng hoa tâm linh. Sám hối không những khiến chúng ta dũng cảm đối diện với những sai lầm của chúng ta mà còn tiến thêm một bước cải tiến lời nói việc làm của mình, không nên bước theo vết xe cũ đã ngã. Người đời đối với cảnh đẹp bên ngoài cực khổ truy cầu không chán. Cái đẹp bên ngoài đâu có thể lâu dài được. Công chúa Lại Đề muốn thay đổi mạng vận của mình thì “sám hối” tức là món lương dược quý báu, giống như người ta thường nói, tướng do tâm sanh, tâm chuyển thì tướng mạo cũng sẽ thay đổi, mà tâm chí thành khẩn thiết tức là phương pháp hay nhất, hiệu quả nhất để tìm cầu cuộc sống tốt đẹp.

 

Người sói đầu tìm thuốc

 

Có một người đầu sói không một sợ tóc, vì thế mùa đông cảm thấy rất lạnh, mùa hè bị thái dương soi nên cảm thấy rất nóng. Hoặc bị muỗi mồng bu cắn, rất là đau khổ, anh ta đi khắp nơi tìm thầy chạy chữa hy vọng có thể trị được bệnh của mình.

Sau đó anh sói đầu được biết có một vị thấy thuốc, bất luận là bệnh nặng nan y như thế nào ông đều có thể trị lành, anh bèn tìm đến thưa với thầy thuốc rằng:

- Bệnh sói đầu của tôi thật là quá đau khổ, nay được biết chỉ có Ngài mới có thể trị được chứng bệnh này, xin Ngài thương xót giúp tôi trị lành bệnh.

Không ngờ vị thầy thuốc mở nón ra, và đưa cái đầu sói trọc lóc cho anh ta thấy:

- Xin lỗi, bản thân tôi cũng mắc phải chứng bệnh này, cũng rất khổ đau. Giả như tôi có thể trị lành, không phải tôi đã sớm trị cho mình rồi sao?

 

(Trị sói đầu – Kinh Bách dụ)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Người thế gian cũng giống như người sói đầu này vậy. Vì bị sanh lão bệnh tử làm nhiễu loạn gây tai hại cho nên mong muốn tìm cầu phương thuốc trường sanh bất lão, mà không chịu đến với Phật, Bồ tát là những bậc Thánh nhân siêu trần để cầu học đạo thoát ly, mà trở lại tự mình mù quáng, mặc dù biết các ngoại đạo vẫn bị cuốn trôi trong vòng sanh tử, luân hồi, không phải là những danh y có thể trị lành bệnh, mà vẫn đi đến chỗ của họ thưa rằng: “Mong cầu các Ngài vì con giải trừ những điều âu lo hoạn nạn của sanh lão bệnh tử, khiến cho con vĩnh viễn được bình an khoái lạc, trường tồn không thay đổi”. Các vị Bà la môn đương thời sẽ trả lời rằng: “Chúng tôi cũng bị những sự sanh lão bệnh tử làm cho lo lắng, chúng tôi đang tìm đủ mọi cách đi tìm phương thức trường sanh bất lão, nhưng cuối cùng không tìm được. Nay chúng tôi nếu có thể làm cho ông được điều đó, thì chúng tôi lẽ ra phải được trước, rồi sau đó mới làm cho các ông được như vậy.

Người sói đầu không thể giải quyết phiền não, chúng ta cũng như vậy. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta mười việc thì có hết tám chín điều không như ý, hoặc sự nghiệp, hoặc tình cảm, hoặc gia đình thường hay có những việc làm cho mình buồn giận không vui, nhưng mà chỉ cần tri túc biết đủ thì tâm sẽ được bình an.

 

Đạm bạc sanh tử

 

Trong thành La Việt có một vị Bà la môn, ông thường nghe nói người dân Xá Vệ rất hiếu dưỡng cha mẹ, tín ngưỡng Phật pháp, , ông vô cùng sùng bái, bèn muốn đi đến nước Xá Vệ để tham quan và tu học Phật pháp.

Khi đến nước Xá Vệ, ông thấy có 2 cha con đang cầy ruộng, gieo trồng. Bỗng nhiên từ đâu một con rắn độc bò đến trước mặt cắn chết người con. Người cha chẳng những không để ý đến đứa con mà còn tiếp tục làm việc. Người Bà la môn cảm thấy lạ kỳ bèn đến hỏi thăm:

- Nhìn thấy con của mình bị rắn độc cắn chết, tại sao ông không giúp đỡ?

Người cày ruộng hỏi ngược lại:

- Ông từ đâu đến đây, đến đây với mục đích gì?

Người Bà la môn trả lời:

- Tôi từ thành La Duyệt đến đây, nghe nói người dân nước các ông đều hiếu dưỡng mẹ cha, tin phụng Tam bảo, cho nên đến đây tu học Phật pháp.

Nói xong người Bà la môn lại hỏi:

- Con của ông bị rắn độc cắn, tại sao ông không buồn mà còn bình tĩnh tiếp tục cày ruộng?

Người cày ruộng nói:

- Sanh già bệnh chết của nhân loại và sự suy thạnh thành bại của vạn vật thế gian đều là quy luật tự nhiên, đau buồn khóc lóc có ích lợi gì? Nếu thương tâm không làm được gì cả, không ăn, không ngủ thì giống như người chết? Thì ý nghĩa cuộc đời không còn gì nữa! Ông vào thành đi, khi đi ngang nhà tôi, xin giúp tôi nhắn giùm, nói con đã chết, không cần phải đem cơm cho 2 người.

Người Bà la môn thầm nghĩ:

- Người này thật không ra gì cả! Con bị rắn độc cắn chết lại chẳng một chút bi ai, còn muốn giảm đi phần cơm của một người, thật là không có tình người.

Ông vào trong thành Xá Vệ, đi ngang nhà người cày ruộng, nhìn thấy người vợ của người cầy ruộng bèn nói:

- Con của bà đã chết rồi, chồng bà nhờ tôi nhắn lại, chỉ cần đem cơm cho một người.

Người phụ nữ nghe xong bèn nói:

- Nhân sanh giống như quán trọ, tuỳ duyên mà đến, tuỳ duyên mà đi, con của chúng tôi cũng vậy! Khi sanh ra cũng trơ trụi mà đến khi chết cũng trơ trụi mà đi, bất cứ người nào trên cõi đời này không thể làm trái ngược quy luật này.

Người Bà la môn lại nói cho vợ của người chết biết, ai ngờ sự trả lời của cô ta cũng như vậy. Ông ta vô cùng tức giận nói với cô gái rằng: chồng của cô đã chết, chẳng lẽ cô không một chút đau lòng sao? Người vợ im lặng không trả lời. Người Bà la môn nghi ngờ mình đã đi đến sai quốc gia, ông nghĩ thầm: ta nghe nói nhân dân ở đất nước này từ ái như thế, hiếu thuận như thế, phụng dưỡng Tam bảo như thế mới muốn đến đây tu học, không ngờ hôm này gặp phải những người không có tình người. Những người như vậy đâu có xứng đáng đáng để tu học Phật pháp.

Ông nghĩ mãi mà không hiểu tại sao những người này lại có thái độ như vậy, nên quyết định đi thưa hỏi Đức Phật. Người Bà la môn này đến chỗ Phật, cuối đầu đảnh lễ và ngồi qua một bên, gương mặt chán nản, buồn bã. Đức Phật hiểu ý định của ông, cố ý hỏi vì sao ông buồn như vậy. Ông trả lời :

- Con gặp việc không như ý nghĩ, cho nên phát rầu.

Đức Phật lại hỏi:

- Gặp việc gì mà không hợp với ý nghĩ của ông?

Ông bèn tình thực thưa với Đức Phật việc ông thấy trên đường.

 Đức Phật dạy rằng:

- Thiện nam tử ! Những người đó thật sự hiểu rõ sự lý của cuộc sống con người ! Họ hiểu rằng nhân sanh vô thường, dù có thương tâm, bi ai cũng không thay đổi được gì, cho nên có cái nhìn chính xác về quy luật tự nhiên của thế gian và nhân sanh, không có ưu sầu. Người đời không hiểu rõ đạo lý sanh tử vô thường, tham chấp luyến ái, khi có việc gì xảy ra thì đau khổ buồn thương, thậm chí không muốn sống. Giống như người sốt cao, nói bậy nói bạ, chỉ khi nào được thầy thuốc trị lành, không còn sốt nữa , mới không còn nói nhảm. Người thế gian cứ mãi bị tham, sân, si làm cho dao động, không thể tự mình vượt ra khỏi. Nếu hiểu đạo lý vô thường, hiểu rõ ý nghĩa bốn chân lý vi diệu: khổ, tập, diệt, đạo, thì phiền não tự nhiêu tiêu trừ. Những người này sẽ được chứng đạo.

Người Bà la môn nghe Phật nói xong, tự trách rằng:

- Con thật ngu si, không hiểu ý nghĩa Phật pháp, nay nghe Phật nói, như trong bóng đêm gặp ánh đèn, được đại ngộ.

Từ đó ông quy y Tam bảo , thọ trì ngũ giới, tinh tấn tu học Phật pháp .

 

(Ngũ phục kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Muốn hiểu rõ mục đích chân chánh của sự sống thì cần phải hiểu rõ thực chất của nó. Muốn được như vậy thì cần phải đối diện và hiểu rõ cái chết. Sanh, lão, bệnh, tử là quy luật tự nhiêu của con người. Hiểu rõ được điều này thì cái nhìn của chúng ta đối với sự sanh tử được mở rộng, mình cũng bớt đi những phiền não không đâu. Hiểu rõ được cuộc sống vô thường thì rất dễ dàng đối diện với cái chết. Dùng tâm niệm bình tĩnh, có cái nhìn chính xác đối với sự chết, có thể đem cho ta một sức mạnh, sự an tĩnh, và tiến thêm một bước hiểu được bản chất của sanh mạng.

 

Kẻ trộm ngọc

 

Xưa kia có một kẻ trộm tên là Hiền Trực, do vì anh ta nhiều lần phạm tội nên dân chúng xa gần trong nước đều biết tiếng. Sau đó, Hiền Trực có duyên lành được nghe Phật pháp, giác ngộ tội lỗi sâu nặng của mình, bèn sanh lòng sám hối tha thiết, quyết định rửa tay gác kiếm, làm lại con người mới. Từ đó, anh ta chẳng những siêng năng tụng kinh niệm Phật mà còn phát tâm trì giữ bát quan trai giới.

Ngày nọ, viên ngọc châu mà nhà vua yêu quí nhất bị mất, các quan trong triều bàn tán xôn xao. Có người tâu với nhà vua rằng:

- Chắc là Hiền Trực, tên ăn trộm đó lấy, ngoài anh ta không ai có gan dám đột nhập vào trong cung, ăn trộm vật quý của bệ hạ.

Nhà vua hỏi ý kiến các quan đại thần phải làm như thế nào, có người kiến nghị:

- Bệ hạ không ngại gì mà không bắt nó về tra khảo, thì sẽ lộ ra chân tướng mà thôi?

Quốc vương thấy rất có lý, bèn sai người bắt Hiền Trực nhốt vào trong ngục. Sau những lần tra hỏi, Hiền Trực kiên quyết mình không có trộm ngọc vụ án kéo dài mà không được giải quyết.

Quốc vương nói:

- Ta không phải là người không hiểu đạo lý, đã không có tội xác thực thì thôi tha cho nó.

Lúc đó có một vị đại thần đứng ra nói:

- Bệ hạ! Thần có một kế có thể thử xem lời nói của Hiền Trực là đúng hay sai, là thực hay giả.

Nhà Vua nghe cũng ham thích hỏi:

- Kế gì ? nói ta nghe.

Khi nghe quan đại thần nói xong, nhà vua bằng lòng thử theo kế hoạch này. Vài ngày sau, trong triều có lệnh xử tử Hiền Trực. Kế hoạch của quan đại thần đã được triển khai. Hiền Trực tay chân mang còng sắt nặng nề, ngồi trong xe củi, chuẩn bị áp giải đến hình trường xử quyết. Ở hình trường, quan cho anh ta uống một ly rượu mạnh, Hiền Trực không nghi ngờ gì cả, lập tức liền uống hết cả ly. Không bao lâu anh cảm thấy trước mắt mơ hồ, trời đất xoay tròn, trước mắt chỉ thấy một màu đen như mực. Anh hôn mê tại chỗ, không còn biết gì nữa cả. Khi tỉnh lại, anh phát hiện mình đang ở trong một toà cung điện vô cùng tráng lệ, sang trọng, trước mặt có rất nhiều thiếu nữ đẹp như tiên đang vui vẻ gảy đàn múa hát. Hiền Trực hỏi:

- Xin hỏi đây là đâu?

Một vị thiếu nữ trả lời:

- Chủ nhân, đây là thiên đường, chúng tôi là thiên nữ hầu Ngài.

Hiền Trực vô cùng nghi hoặc hỏi:

- Thiên đường? Ta làm sao mà đến thiên đường?

Thiếu nữ trả lời:

- Vì Ngài khi còn sống trộm ngọc của Quốc vương cho nên mới được đến thiên đường vui hưởng sự khoái lạc.

Hiền Trực nghiêm nét mặt nói:

- Hoang đường ! Nếu tôi thật trộm vật báu của nhà vua, sau khi chết phải đoạ địa ngục chịu khổ, chứ sao lại sanh vào thiên đường ? Nếu được sanh vào cõi trời thì phải giữ giới không ăn trộm. Huống chi tôi từng nghe kinh Phật nói, thiên nhân không chớp mắt, các ngươi từ khi ta đến đây mắt chớp không biết bao nhiêu lần, sao mà có thể là thiên nhân?

Những người giả làm thiên nữ khi nghe được Hiền Trực nói những lời chân thật phát xuất từ đáy lòng như thế, bèn tình thực bẩm báo nhà vua. Nhà vua nghe rồi cười lớn nói:

- Nó nhất định không trộm đồ của ta, thôi tha cho nó nhanh đi! Ta còn phải trọng thưởng cho nó nữa.

Hiền Trực vì tâm địa ngay thẳng sáng suốt lại siêng năng đọc tụng kinh điển, giữ gìn giới cấm, cho nên chẳng những cứu được sinh mạng của mình, mà còn được quốc vương khen thưởng.

 

(Hiền Trực trộm ngọc – Kinh Luật Dị Tướng)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Đứa con lang thang quay đầu trở về đem vàng cũng không đổi, đích xác không sai lầm! Hiền Trực vì có tiền án nên bị nghi oan là kẻ trộm ngọc, nhưng vì anh ta thật tâm hối cải cho nên bất luận người ta hành hạ tra tấn như thế nào vẫn giữ sự trong sạch của mình, dù là ở trong “thiên đường” do nhà vua và các quan đại thần thiết kế cũng không nhận mình là kẻ trộm ngọc, lại chỉ ra đó là sự sai lầm, vì không thể ăn trộm ngọc mà được sinh lên thiên đường, khiến cho mọi người đều kính phục, trả lại sự trong sạch cho mình. Đối với kẻ lãng tử biết sửa đổi lỗi lầm, làm mới cuộc đời, chúng ta nên dành cho họ sự tín nhiệm nhiều hơn, bớt đi sự nghi ngờ.

 

Buông bỏ phiền não

 

Xưa tiền thân Bồ tát là một vị vua, tên là Sát Vi, chí hướng của Ngài rất cao cả, trong sạch, phẩm hạnh chánh trực, và rất tin tưởng Phật pháp. Một ngày nọ, nhân lúc nhàn rỗi Ngài bèn vi hành ra khỏi hoàng cung, gặp ông già vá giày. Trong lúc cao hứng bèn hỏi ông già:

- Trong nước ai sung sướng nhất?

Ông già trả lời:

- Đương nhiên quốc vương là người sung sướng nhất trên đời.

Nhà vua hỏi:

- Tại sao vậy?

Ông lão đáp:

- Ông thử nghỉ xem, có bá quan văn võ để sai khiển, lại có nhân dân cung phụng, muốn cái gì thì được cái nấy, thế không phải là sung sướng sao?

Nhà vua trả lời:

- Mong rằng đúng như lời ông nói.

Sau đó cùng ông lão uống rượu bồ đào. Đến khi ông lão say không còn biết chi cả, bèn đem ông lão về hoàng cung, nói với cung phi mỹ nữ rằng:

- Ông già này nói nhà vua là người sung sướng nhất, ta muốn đùa với ông ta, hãy cho ông ta mặc vương phụ, cho ông ta xử lý việc nước, các ngươi không nên sợ.

Cung phi trả lời:

- Tuân lệnh.

Khi ông già tỉnh dậy, cung nữ giả vờ nói:

- Đại vương! Ngài uống rượu say, nay có rất nhiều việc đang chờ Ngài xem xét.

Ông được đưa ra thượng triều, bị mọi người hối thúc nhanh nhanh xử lý các việc, ông chỉ biết ngơ ngơ ngác ngác, không hiểu việc gì cả. Lúc đó, bên cạnh thì có các sử quan ghi lỗi, còn các quan đại thần thì bàn thảo nghị luận. Ngồi suốt ngày khiến cho ông lão mỏi mệt, ăn chẳng thấy ngon, sắc mặt tiều tuỵ. Cung nữ lại giả bộ hỏi:

- Đại vương! Tại sao Ngài tiều tuỵ, sắc mặt xanh xao như thế?

Ông già trả lời:

- Ta nằm mơ thấy mình là ông già vá giày, làm việc vô cùng cực khổ mới kiếm được miếng cơm manh áo, vì thế nên ốm như thế này.

Mọi người đều cười thầm. Đến tối, ông già nằm trằn trọc không sao ngủ được, phân vân: “Ta là kẻ vá giày hay là quốc vương? Nếu thật là quốc vương, thì da thịt tại sao lại chai cứng như vậy? Nếu là kẻ vá giày, thì tại sao lại ở trong hoàng cung? Ôi, tâm ta rối loạn, mắt cũng hoa lên rồi”. Ông thật không rõ mình là ai.

Vương phi lại giả vờ nói:

- Quốc vương không vui như vậy hãy gọi ca kỹ đến làm vui cho Ngài.

Ông lão lại uống rượu nho cho đến lúc say không còn biết gì nữa. Quốc vương cho ông mặc lại bộ đồ rách rưới và đưa về nhà nằm trên chiếc giường tre cũ nát. Ông lão sau khi tỉnh rượu, nhìn thấy căn nhà tồi tàn, y phục thô xấu của mình đều giống như xưa, chỉ có toàn thân đau nhức, giống như bị ai đánh đập vậy. Qua vài ngày sau, quốc vương lại đến chỗ ông ta. Ông lão nói:

- Lần trước uống rượu, tôi thật hồ đồ vô tri, nay mới hiểu. Tôi nằm mộng thấy mình làm quốc vương, phải xử lý việc nước, xét đoán các quan, lại có sử quan ghi chép việc đúng việc sai, cùng các quan đại thần bàn thảo nghị luận việc nước, trong lòng cứ lo sợ không an, làm cho khắp cả thân mình đều đau nhức, giống như bị ai đánh đập vậy. Trong mông mà còn như thế, nếu làm vua thiệt có phải càng đau khổ hơn không? Trước đây mấy ngày tôi nói với ông, nhà vua là người sung sướng nhất thật không đúng vậy.

Nhà vua trở về hoàng cung, kể câu chuyện này cho các quan đại thần nghe, ai nấy đều ôm bụng cười ngất.

 

(Kinh Vua Sát Vi – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Nhà nào cũng có quyển kinh khó tụng, ai ai cũng có việc khó giải quyết. Ông già vá giày hâm mộ cuộc sống đế vương cao cả, nhưng khi làm quốc vương thiệt thì cảm thấy vô cùng đau khổ, không thể nhẫn chịu được, nên thà rằng sống cuộc đời vá giày của mình còn hơn. Tạo hoá tạo ra có nhiều tầng lớp trong xã hội, nhưng mỗi người đều có sự phiền não của mình. Bất luận là ở trong núi rừng hay ở nơi thành thị nếu có thể biết được tri túc, tiêu trừ những dục niệm thì mới có thể buông bỏ được phiền não.

 

Lấy “cái không có”

 

Xưa kia có hai người đang đi trên đường gặp một người đang kéo xe đầy mè bị lún trong bùn, anh ta kéo thế nào cũng không lên được. Người kéo xe bèn cầu mong hai người này giúp anh ta một tay:

- Mong hai anh giúp tôi kéo xe của tôi ra khỏi bùn lầy.

Hai người nói:

- Chúng tôi kéo giúp xe cho bạn, bạn đền ơn cho chúng tôi cái gì ?

Người kéo xe trả lời:

- Không có cái gì cho các anh cả.

Hai người bèn giúp anh ta kéo xe ra hỏi bùn, bèn đòi người kéo xe đền ơn:

- Kiếm cái gì cho chúng tôi.

Người kéo xe nói:

- Không có gì cả.

Nhưng một trong hai người cứ bướng bỉnh nhất định đòi phải đền ơn:

- Vậy thì cho chúng tôi cái “không có”! “Không có” cũng được xem là một món đồ.

Anh ta nói như thế rồi đưa tay ra đòi cho được cái không có gì. Khiến cho người kéo xe bối rối không biết phải giải quyết như thế nào. Nhưng vào lúc đó một trong hai người hiểu ra cười nói với bạn mình rằng:

- Chúng ta đi thôi! Người kéo xe nói “không có món gì” tức là đã cho chúng ta món “không có gì” rồi.

 

(Lấy “cái không có” – Kinh Bách dụ)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Không tức là có, có tức là không. Tại sao thi ân cho người nhất định cần phải người đền đáp? Nhất là sự chấp trước về sự đền đáp về vật chất. Kỳ thực khi mà giúp người, tâm của chúng ta đã vui vẻ sung sướng biết bao, sự đền đáp nào lớn hơn sự vui vẻ này? Đạm bạc về vật chất giúp cho chúng ta có một cái tâm an lạc.

 

Chim Ngã sở

 

Thuở xưa trong núi Hương Sơn, có rất nhiều cây tất bát, cây tiêu và đủ các thứ cây thuốc. Trên các ngọn cây tất bát thường có một giống chim tên là Ngã Sở. Loài chim này thường cho rằng các cây là thuộc về nó. Mùa Xuân khi mà trái thuốc chín, rất nhiều người đến hái trái để chữa bệnh, loài chim Ngã Sở cuống quít hét gào trên cây:

- Các ngươi không được hái. Những trái này là của ta.

Nhưng người ta không để ý đến nó, cứ tiếp tục hái. Chim Ngã Sở đã cho rằng cây này là tài sản riêng của nó, cho nên các loài chim khác không đến giúp, mặc cho chim Ngã Sở thét gào đến tàn hơi kiệt sức mọi người vẫn tiếp tục hái, vì thế trái trên cây càng ngày càng ít. Loài chim Ngã Sở này cứ mãi bi thương kêu gào không ngớt, cuối cùng buồn thương quá độ mà chết đi

 

(Sanh kinh quyển 1)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Không nên chấp trước thái quá về tiền của vật chất của mình giống như chim Ngã Sở giữ gìn của cải của mình một cách quá tha thiết đến nỗi thân hoại mạng chung. Kỳ thực, tiền của vật chất là thứ mà sống không mang theo, chết không mang đi được, một ngày nào chết đi tiền của sẽ rời khỏi thân ta.

 

Cá con hiếu kỳ

 

Thuở xưa có một dòng sông nhỏ rất yên tĩnh, trong dòng sông có rất nhiều cá. Có lẽ vì dòng sông ở nơi hoang vắng, cho nên không có ai đến đây bắt cá. Cá lớn thường răn nhắc đám cá con:

- Các con không nên rời khỏi chỗ này đi đến chỗ khác, cẩn thận kẻo bị người bắt.

Nhưng có một con cá nhỏ có tính rất hiếu kỳ, nó tò mò muốn biết thế giới ngoài kia như thế nào.

Cá lớn càng nói không nên đi thì nó càng muốn đi. Một ngày nọ, cá nhỏ đang nói chuyện với bạn của mình về thế giới bên ngoài, nói mình rất muốn đi ra ngoài để biết. Một con cá yếu gan nói:

- Nghe má tôi nói, chúng ta chỉ cần đi ra là bị người bắt ăn thịt.

Con cá hiếu kỳ lại hỏi:

- Má của bạn từ xưa đến nay chưa từng đi ra ngoài làm sao biết được bị người bắt ăn?

Cá nhỏ trả lời:

- Đương nhiên là do má của má tôi nói.

Cá hiếu kỳ nói:

- Nhưng mà má của má bạn cũng chưa từng đi ra ngoài, dù sao đi nữa tôi cũng phải đi một chuyến cho biết.

Cá hiếu kỳ không nghe lời của cá lớn, bèn bơi đi đến chỗ khác. Những người ngư dân đang dùng mồi câu cá, đang thả lưới đánh cá, cá nhỏ may mắn không bị bắt vào trong lưới, nó lại bơi về với cá lớn. Cá lớn thấy cá nhỏ bơi trở lại bèn nói rằng:

Con chớ nên rời khỏi chỗ này, coi chừng bị người bắt ăn thịt, cá nhỏ trả lời:

- Con vừa bơi đến chỗ khác đây.

Cá lớn hỏi:

- Con đi đâu? Có bị bắt vào trong lưới không?

Cá nhỏ trả lời:

- Con đến chỗ kia, không ai bắt con cả, chỉ là từ đàng xa nhìn thấy những sợ dây dài ở phía sau, không biết là thứ chi.

Cá lớn nói:

- Con thật là may mắn, đã thoát trở về đây. Suýt nữa là con đã bị hại rồi. Tại sao vậy? Ông bà nội xưa kia của con đã bị những sợ dây dài đó làm hại! Những sợi dây đó chính là lưới của con người dùng để chúng ta.

Kệ rằng:

Ba cõi như nhà lửa,

Người đời không thể lìa,

Như liếm mật trên đao,

Ăn ngon không biết hoạ.

 

(Phật thuyết đại ngư sự kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tuy nói chỉ có tự thân mình trải qua, tìm hiểu thế giới bên ngoài mới có thể mở rộng tầm mắt của mình, mới có thể tiến bộ. Nhưng nếu bỏ đi những kinh nghiệm già giặn về cuộc sống của các bậc tiền bối, chấp chặt ý kiến của mình, bất chấp mọi việc để tiến tới thì khó tránh gặp phải nguy hiểm. Trong cuộc sống, nếu tham công danh lợi dưỡng, không theo đúng chánh nghiệp, thì cuối cùng sẽ bị rơi vào con đường tà, dù có hối hận cũng không kịp.

 

Ngựa và heo

 

Nước Đại Việt Chi xưa kia người dân sống an cư lạc nghiệp, mọi người đều giữ gìn bổn phận của mình. Dân chúng trong nước chăn nuôi rất nhiều gia súc. Trong chuồng heo là những con heo mập mạp, ở chuồng ngựa thì nuôi các con ngựa chở đồ.

Ở đây có một phong tục là dùng lúa mạch nấu với bơ để nuôi heo. Heo ăn lúa mạch nấu bơ thơm ngon, nằm trong chuồng heo êm ấm, hàng ngày không làm việc gì, cho nên chúng béo tròn, mập mạp. Còn bầy ngựa thì mỗi ngày phải làm việc nặng nhọc, khi ra ngoài thì dãi dầu mưa gió, mỏi mệt vô cùng, về đến chuồng chỉ được ăn toàn là cỏ, ngủ trong chuồng lợp bằng cỏ khô. Con ngựa nhỏ của nhà vua nhìn thấy việc này cảm thấy không phục bèn chạy đến hỏi mẹ:

- Chúng ta đem sức mình làm việc cho nhà vua không kể là đường xa đường gần, mưa gió đều phải lặn lội đi cho kịp công việc của nhà vua thế mà phải ăn cỏ khô, phải uống nước mưa bụi bậm.

Ngựa mẹ trả lời:

- Các con đừng có nghĩ như vậy. Chắc các con hâm mộ những con heo đang ăn lúa mạch nấu dầu.Các con khờ khạo quá, các con cứ đợi mà xem, không bao lâu các con sẽ biết việc gì xảy ra.

Không bao lâu năm cũ trôi qua, năm mới sắp đến. Người dân nước này rất xem trọng ngày tết, mọi người đều đem những con heo bình thường nuôi dưỡng đặc biệt trói lại quăng vào nồi nước sôi, heo kêu gào thảm thiết nhưng không tránh khỏi cái hoạ cắt xẻ, nấu nướng thành những món đồ ngon trên bàn ăn trong các bữa tiệc. Lúc đó ngựa mẹ mới nói với ngựa con rằng:

- Các con có còn muốn ăn lúa mạch nấu bơ nữa không? Muốn biết việc gì xảy ra, có thể đi xem cảnh ngộ của bầy heo.

Bầy ngựa sau khi thấy những con heo được người nuôi mập để giết thịt mới biết xưa kia mình nghĩ sai lầm. May mà mình không có giống như heo. Từ đó, bầy ngựa an phận ăn cỏ, dù có gặp lúa mạch cũng lánh xa không ăn.

Kệ rằng:

Người nghèo hâm mộ người giàu,

Người giàu khổ một thân,

Gà trong lồng, nồi nước sôi gần đó,

Hạt rừng an lạc trong trời đất thênh thang.

 

(Phẩm lợi dưỡng – Xuất diệu kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Vạn vật tự nhiên đều có cách sinh tồn riêng và cũng có những vận mệnh không giống nhau của mình. Vì một niệm tham sân, mà oán trách cuộc sống gian khổ, thì không thể giác ngộ ý nghĩa sâu sắc của cuộc đời, còn bằng lòng với cuộc sống bình thường, sự hưởng thụ đạm bạc, đó mới là triết lý cuộc sống vĩnh hằng.

 

Cảnh huyễn sa mạc

 

Truyền thuyết xưa kia nói rằng trong sa mạc có một toà thành rất mỹ lệ, khi thái dương vừa xuất hiện có thể nhìn thấy cửa thành, đài ngắm cảnh, cung điện cùng với người qua lại. Mặt trời dần dần lên cao, toà thành dần dần biến mất. Nhiều người thường cho rằng đó là một thiên đường khoái lạc mà không biết toà thành đẹp đẽ này chỉ là huyễn cảnh trong sa mạc do không khí tạo thành, đều là hư huyễn không thật. Có một đoàn thương nhân từ xa đến đây, vô tình nhìn thấy toà thành trong sa mạc này, nghĩ rằng nếu đến nơi đó buôn bán chắc sẽ kiếm được rất nhiều tiền. Vì thế họ liền lập tức đi đến đó. Nhưng càng đến gần, thì càng không tìm thấy, họ buồn nản hét rằng:

- Chúng tôi mệt quá, chúng tôi nóng quá, chúng tôi khát quá !

Ánh mặt trời chiếu trên bầu khí nóng bỏng, họ lại cho là nước, vội vàng chạy đến nhưng họ càng chạy đến gần thì càng tìm không thấy, dần dần họ mỏi mệt vô cùng. Cuối cùng chạy đến chỗ sơn cùng núi tận, nhịn không được bèn lớn tiếng kêu khóc. Vào lúc đó, từ xa tiếng mình vọng lại bèn cho rằng có người ở gần đây. Đoàn thương nhân khởi lên niềm hy vọng, dốc hết tinh thần, sức lực tiến về phía trước. Họ đi mãi, đi mãi, mặt mày lem luốc đầy bụi bặm, càng đi càng thất vọng, chán nản. Cuối cùng đoàn người phát hiện ra những gì mà mình theo đuổi chỉ là huyễn cảnh, lập tức tâm khát vọng mong cầu ngừng lại. Mọi người đều bỗng nhiên đại ngộ.

 

(Đại trí độ luận)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Toà thành trong câu chuyện là một huyễn cảnh đẹp đẻ, nó khiến cho bạn mê say đến nỗi điên cuồng chạy đuổi theo, cuối cùng không đạt được gì cả, thậm chí có thể mất mạng trong sa mạc. Cuộc sống bình thường đạm bạc mới chân thật, tại sao cứ mãi chấp chặt vào những ý tưởng tìm cầu của mình rồi sau mới chịu tỉnh ngộ?

 

Chương năm

Học hạnh khoan dung

 

Trâu chúa nhẫn nhịn

 

Thuở xưa có một vùng đồng cỏ rộng lớn, mênh mông không thấy bờ, mây bay nước chảy, cỏ xanh mơn mởn, hoa thơm trái ngọt. Trâu chúa mỗi ngày đều đem rất nhiều trâu con trâu cháu đến đây, đói thì ăn cỏ non, khát thì uống nước suối trong lành, nhàn nhã qua ngày, cuộc sống thật là an vui.

Mỗi ngày trâu chúa hùng tráng mạnh mẽ đi trước đàn trâu. Trâu chúa tính tình ôn hoà, nhưng có phong thái uy nghi lẫm liệt của bậc vương giả. Có một con khỉ nhìn thấy cuộc sống của trâu chúa an nhàn tự tại như vậy vô cùng đố kỵ, ganh ghét, bèn lượm cát đá quăng tới tấp vào đàn trâu. Trâu chúa đi phía trước, bị đất đá quăng trúng, tuy thân bị làm nhục nhưng không phiền não oán giận, chỉ ngẩng đầu thương xót nhìn con khỉ, than một tiếng rồi lắc đầu bỏ đi.

Đàn trâu ở sau nhìn thấy như vậy, cũng học theo, không tranh cãi với khỉ, tất cả đều ve vẩy cái đuôi theo trâu chúa. Thấy vậy khỉ ta cho rằng bầy trâu sợ, nó thêm kiêu căng ngã mạn. Nó nhìn từ xa thấy một con nghé ham chơi không kịp đi theo bầy, bèn lập tức đuổi đến, lấy cát đá, vừa chửi vừa quăng vào nghé con. Con nghé bị ném đá bèn nổi giận, quay mình dự định dạy cho con khỉ một bài học, bỗng nhìn thấy phía trước trâu chúa quay lại đang nhìn vào mình. Ánh mắt như mệnh lệnh, chú trâu con dằn lại sự tức giận, chạy theo đàn.

Đàn trâu lại tiếp tục đi. Trước mặt là một cây đại thụ rất lớn, cành lá xum xuê, có một vị thần cây ở đó, nhìn thấy sự tình phát sinh. Đợi cho đàn trâu đi đến, thần liền hỏi :

- Tại sao vừa rồi khỉ kia vô lễ như vậy, mà các ngươi đều nhẫn chịu không trả lời, có phải là quá khiếp nhược hay không ?

Trâu chúa bèn dùng kệ trả lời :

Khỉ kia khinh thường nhục mạ ta

Ắt làm như vậy đối với người

Người nhất định sẽ trừng phạt nó

Đây là lỗi của kẻ vô tri

Thần cây nghe xong, gật đầu tán thưởng, vô cùng kính phục phẩm hạnh của trâu chúa. Không lâu, có một đoàn Bà la môn từ xa đến đây, cũng bị con khỉ nhìn thấy. Nó bèn giở lại trò xưa, đợi đoàn người đến gần, vừa quăng đá vừa chửi. Đoàn người đầu tiên thì giật mình không biết lý do gì bị đánh, sau đó nhìn rõ ràng thì ra một con khỉ, bèn tức giận, hét la, mọi người cùng xổ tới bắt lấy con khỉ. Con khỉ sợ quá vội vàng cầu xin tha mạng. Đang lúc tức giận làm sao có thể tha, họ đè chặt nó xuống đất, đánh cho một trận. Con khỉ bị trận đòn xong một mạng ô hô. Thần cây nhìn thấy, tự đáy lòng càng thêm kính phục trâu chúa.

 

(Trâu chúa nhịn khỉ – Kinh Luật Dị Tướng)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Thông thường người ta gặp phải đối phương quyền cao chức trọng, giàu có, sức mạnh, không có cách nào hết đành phải nhẫn, đó gọi là nhẫn chăng? Sự chân chính nhẫn nhục là người kia không bằng mình, mình có đủ sức mạnh để đối phó với họ, dù cho người đó dối gạt mình, làm điều không phải với mình, nhưng mình lại có thể khoan dung, nhẫn chịu, cho rằng bản tính của họ giống như ta vậy, chỉ là một lúc hồ đồ, hoặc chỉ là trong hoàn cảnh xấu ác bị huân nhiễm, ta không để ý điều đó, trong hoàn cảnh và tâm cảnh như thế mà có thể khoan dung nhẫn nhịn mới là sự nhẫn nhịn chân chính. Đố kỵ là một liều thuốc độc hại người, một loại tâm lý đáng sợ, sẽ khiến cho người làm mất đi tâm trí của mình. Cần phải bỏ đi lòng đố kỵ, lấy sự an vui của người làm sự an vui của mình, rộng gieo trồng phước điền, mới là nhân sinh tốt đẹp.

Còn làm người thì không thể quá phần cuồng vọng, khi người một cách thái quá, lấy mạnh hiếp yếu. Có lúc người bị khi dường như yếu đuối, sự thật tấm lòng quản đại vị tha không chấp nhất với mình mà người cuồng vọng cũng có ngày bị thanh toán xử lý. Con khỉ cuồng vọng kia cuối cùng phải nhận lấy quả ác tự mình gieo, đó là duyên cớ mà trâu chúa nhìn khỉ một cách thương xót. Câu chuyện này có lẽ sẽ là động viên cho những người vô cớ bị huỷ báng, lửa tâm khó dằn: Người trong sạch thì tự trong sạch, người đục thì tự đục. Không cần phải vì những lời trách móc hoặc nghị luận có lẽ có, mà quá xúc động, hoặc tức giận làm những việc đáng tiếc mà mình phải hối hận về sau. Vì sự việc sẽ có ngày chân tướng rõ rằng trước mặt mọi người, những sự phỉ báng và dị nghị mà mình gặp phải sẽ được đền bù.

 

Mặt trời không mọc

 

Thời quá khứ, có hai người, một người tên là Đề Kỳ La, một người tên là Na Lại. Họ lập chí muốn thành tựu nguyện ước của mình cho nên rời xa cuộc sống loài người, ở trong hang sâu rừng vắng tu hành. Bất luận là xuân hạ, thu đông, đều ngủ ở trong hang sâu, mặc những y phục thô cứng làm bằng cỏ, nằm trên tấm lót bằng hoa dại, đói thì ăn trái rừng, khát thì uống nước suối. Trải qua thời gian tu hành, cả hai đắc được ngũ thông: mắt có thể nhìn thấu mọi vật, mọi sự trên đời, tai có thể nghe những âm thanh rất vi tế, thân có thể tuỳ ý bay đến bất cứ chỗ nào, có thể biết trong tâm người nghĩ điều gì, thấy được những việc đã xảy ra trong quá khứ xa xưa hay đoán được tương lai sự việc. Do vì hai người có thần thông quảng đại, bản lĩnh cao siêu, bất luận là Bà la môn, Sa môn, hay là tiên nhân, Thánh nhân, thiên long quỷ thần đều kính phục, đều khấu đầu đảnh lễ. Một đêm nọ, Đề Kỳ La vì tụng kinh hơi lâu, cảm thấy mỏi mệt nên ngủ trước; Na Lại lúc đó chưa ngủ, sơ ý đạp vào đầu Đề Kỳ La, khiến cho ông ta nhức nhối không thôi. Đề Kỳ La giận dữ nói:

- Ai đạp vào đầu của ta? Ngày mai mặt trời lên cao một sào, đầu của người ấy sẽ bị bể làm bảy mảnh.

Na Lại nghe xong cũng vô cùng tức giận nói:

- Đó là tôi sơ ý đạp vào đầu của ông, có gì mà ông phải nguyền rủa nặng nề như vậy? Đồ vật ở gần nhau còn có lúc đụng chạm, huống chi người với người sống chung với nhau, làm sao mà không có sự xô xát ? Ông nói ngày mai mặt trời mọc, đầu của tôi sẽ bể thành bảy miếng, vậy thì tôi sẽ không cho mặt trời mọc ra.

Do vì Na Lại thi triển pháp thuật, hôm sau thái dương quả nhiên không có xuất hiện. Năm ngày trôi qua mà mặt trời vẫn không xuất hiện, cả vương quốc đều là một màu tối đen. Bất luận quốc vương, đại thần, hay dân chúng đều cảm thấy nhất định đã  xảy ra việc gì đó rất đáng sợ nhưng không ai biết được đó là việc gì. Mọi người đều lo lắng kinh sợ, khắp nơi là đèn, đuốc, nến, cùng với lòng người lo sợ không an. Quốc vương thỉnh lại Tăng sĩ, thưa hỏi phải làm như thế nào. Trong đám Tăng nhân có một người tài học siêu quần, cũng biết được việc quá khứ vị lai, bèn thưa với nhà vua rằng:

- Thưa bệ hạ! Theo sự hiểu biết của tôi, đó là do hai vị tu hành đắc đạo trong núi, phát sinh sự xô xát lẫn nhau, cho nên dùng thần thông khiến cho ánh mặt trời không thể mọc.

Nhà vua lo lắng hỏi :

- Theo ý của Ngài thì có cách nào làm cho họ ngừng được sự tranh chấp ?

Vị Tăng kiến nghị rằng:

- Tâu đại vương, xin đại vương lập tức soái lĩnh nhân dân toàn nước, không kể già trẻ gái trai, chức vụ cao thấp, đến chỗ của hai vị tu hành kia, thỉnh cầu họ hoà giải. Các vị ấy dù có bất mãn với nhau, nhưng vì lợi ích của dân chúng cũng sẽ hoà giải, vì họ là người có tâm địa thiện lương.

Nhà vua nghĩ không ra cách nào hay hơn, chỉ đành nghe theo lời kiến nghị của vị Tăng, thử xem có hiệu quả hay không. Nhà vua bèn phái người đi khắp nơi truyền đạt mệnh lệnh. Không bao lâu, toàn thể dân chúng và bá quan văn võ đều tập hợp lại. Nhà vua soái lĩnh đoàn người đông đảo, cùng nhau đốt lửa đi vào trong núi tìm đến hai vị tu hành kia. Quốc vương nhìn thấy Na Lại, lập tức quỳ xuống nói:

- Thánh giả, quốc gia giàu mạnh, cuộc sống dân chúng an cư lạc nghiệp, đều nương vào hồng phước của các Ngài, mà nay hai vị không hoà, đều là lỗi của tôi, không có liên quan gì đến dân chúng, xin Ngài thiết pháp tiêu trừ sự lo lắng cho dân chúng, khiến cho họ được an cư lạc nghiệp.

Na Lại đã ý thức được hậu quả do sự tức giận của mình nói:

- Tâu Bệ Hạ! Nếu như Đề Kỳ La đồng ý giải hoà, tôi sẽ lập tức làm cho ánh sáng mặt trời xuất hiện.

Quốc vương lại đi đến chỗ của Đề Kỳ La thỉnh cầu ông làm hoà với Na Lại khiến cho nhân dân tránh được sự âu lo, nhưng mà, Đề Kỳ La đã phát ra lời chú thì không thể thu trở lại. Quốc vương rất thông minh bèn nói với Na Lại:

- Trên đầu ông hãy đắp đầy đất bùn, sau đó cho ánh mặt trời xuất hiện.

Na Lại nghe theo, bèn cho phép ánh mặt trời xuất hiện. Ánh mặt trời xán lạn chiếu rực rỡ khắp đại địa núi sông, tất cả đều sáng suốt ấm áp biết bao. Vào lúc ấy, cục đất bùn trên đầu Na Lại bị ánh mặt trời chiếu vào, bể ra làm bảy mảnh, còn người của Na Lại thì vẫn bình an. Hai vị tu hành vui vẻ như xưa, cùng giúp nhà vua trị lý đất nước, toàn quốc người dân đều được an cư lạc nghiệp.

 

(Kinh Luật Dị Tướng)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Sự giận dữ nổi nóng khiến cho mình thất thường mà cũng liên luỵ đến mọi người cùng chịu khổ. Trong câu chuyện, sự không hợp ý kiến của hai vị tu hành đắc đạo cũng chính là như vậy. Vì sự mâu thuẫn nhỏ của họ, mà khiến cho người ta không thấy được ánh sáng mặt trời trong mấy ngày. May sao, sự tình cuối cùng được giải quyết viên mãn tốt đẹp, hai vị tu hành hoà hợp như xưa, khiến cho mọi người lại thấy được ánh sáng mặt trời, an cư lạc nghiệp. Nhưng có nhiều lúc, sự phiền não do lửa sân gây ra không phải dễ dàng hoá giải như thế. Cho nên khuyên người: bất luận đối đãi với người hay xử lý chuyện gì đều nên tâm bình khí hoà, bình tĩnh dùng lý trí giải quyết, không nên dễ dàng nổi nóng, làm những việc không có lợi cho mình và cũng không có lợi cho người.

 

Người dê đại chiến

 

Xưa kia, trong một ngôi làng nhỏ nọ, có một người đàn ông cùng với cô giúp việc và một con dê. Không ngờ có một ngày cuộc sống của vùng quê êm đẹp như một bài thơ lại bị một việc nhỏ phá hoại.

Cô gái giúp việc hàng ngày cần kiệm, siêng năng, thường nghe lời người chủ, hầm nấu lúa mạch, nhưng con dê thông minh lanh lợi kia lại thường thừa lúc không người trộm ăn. Người chủ không rõ, cứ thấy lúa mạch tiêu hao, cho rằng người nữ tỳ lén trộm ăn, cho nên thường nổi nóng bực tức. Sự việc cứ diễn ra như vậy, người nữ tỳ chịu oan ức mãi nên càng ngày càng nghi ngờ và oán ghét dê kia.

Từ đó về sau, nhìn thấy bóng dáng dê ở đâu là cô ta bèn lấy cây, lấy gậy đánh đập một cách tàn nhẫn. Con dê vì để bảo vệ lấy mình, cũng dùng sừng mà đánh lại. Trong nhà của người chủ ngày ngày diễn ra người dê đại chiến mà lửa chiến càng ngày càng tăng.

Một ngày nọ, người nữ tỳ đang bận rộn nhen lửa nấu đậu, hai tay cầm bùi nhùi nhen lửa. Dê nhìn thấy người nữ tỳ tay không gậy gộc, không để lỡ thời cơ, bèn cúi đầu dùng sừng xông vào cô gái. Bất ngờ hoảng hốt cô vội vàng cầm đống bùi nhùi mới vừa bén lửa quăng trên mình dê.

Đốm lửa nhỏ gặp phải lông dê là vật liệu dễ cháy, từ từ bén dần, phát xuất ra âm thanh. Lúc đầu là đám khói nhỏ, sau đó cháy bùng lên. Nóng và đau, khiến cho dê tâm phiền ý loạn, phóng ra khỏi nhà. Nó đi đến đâu, bất luận là xóm làng, núi rừng, ruộng vườn… đều thành biển lửa. Năm trăm con khỉ ở trong núi không kịp tránh nạn đều phải bỏ mạng trong biển lửa.

 

(Nữ tỳ đấu dê – Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Vốn là một thôn làng bình yên, tốt đẹp, chỉ vì sự sân hận của một người mà trong một đêm xác chết bị thiêu cháy đầy đồng. Bài học cho chúng ta là: Không nên chấp thủ, cố chấp, nếu không sẽ giống như người nữ tỳ và con dê vậy, oán hận, xung đột không ngừng, lửa sân nổi giận khiến cho những người không có liên quan đều rơi vào tình cảnh không có cách nào cứu chữa.

 

Phật đà cứu nước

 

Có một lần vua Lưu Ly nước Kiều Tác Nhi La đem quan chinh phạt nước Ca Tỳ La Vệ. Ca Tỳ La Vệ là một nước yếu nhỏ, khó chống lại sức mạnh của vua Lưu Ly. Lúc đó Đức Phật biết được tin này, tuy Ngài đã thành Phật, vốn không nên liên can đến việc thế sự, chính trị, nhưng để cứu những người dân vô tội tránh khỏi tai hoạ của việc chiến tranh, Ngài đành phải can thiệp vào việc này. Thời đó, Ấn Độ có một phong tục là: Nếu xuất binh đánh trận, gặp phải vị Sa môn thì phải lui binh. Cho nên, mỗi lần quân của vua Lưu Ly chinh phạt nước Ca Tỳ La Vệ, thì Đức Phật đều ngồi tịnh toạ ở giữa đường mà đoàn quân chuẩn bị đi ngang qua, để ngăn cản đoàn quân tiến bước. Cứ như thế, một lần, hai lần, quân đội của vua Lưu Ly đều phải quay về. Một lần nọ, vua Lưu Ly xuất binh lại nhìn thấy Đức Phật ngồi ở giữa đường, nhịn không được bèn tiến lên phía trước, xá chào Đức Phật và hỏi rằng:

- Bạch Đức Thế Tôn, bên vệ đường có cây cao lớn, bóng cây mát mẻ, giữa đường ánh nắng chói chang, Ngài không nên ngồi ở đây, nên ngồi dưới bóng mát của cây.

Đức Phật trả lời:

- Thưa Đại vương, bóng mát của thân tộc hơn bóng mát của cây.

Nghe câu nói này vua Lưu Ly vô cùng cảm động, lập tức hạ lệnh lui binh trở về, tạm thời đình chỉ ngọn lửa chiến tranh.

Thân tộc giống như bóng cây có thể che mát chúng ta, quốc gia cũng giống như bóng cây có thể bảo hộ chúng ta, sự che chở của thân tộc, quốc gia, vượt qua tất cả những bóng cây nào. Lúc kẻ địch xâm phạm đất nước của chúng ta, nếu bóng mát của thân tộc không còn thì cần bóng mát của cây làm gì? Cho nên vua Lưu Lý nghe xong cảm động mà lui binh.

 

(Phẩm đẳng kiến – kinh Tăng nhất A Hàm)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Yêu nước, cứu nước mọi người đều có trách nhiệm, dù cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không ngoại lệ. Trong xã hội hiện thực, mỗi người đều nói báo đáp ân đất nước, thương dân vì dân, nhưng nhất định phải có hành động cụ thể. Có người dũng cảm tòng quân, có người siêng năng nỗ lực tăng gia sản xuất, có người siêng năng học tập, dạy học, làm việc giáo dục, có người lấy hành động từ thiện giúp người, hiếu thuận, tề gia để báo đáp ân quốc gia, thậm chí sửa cầu, bồi lộ, quan tâm, giúp đỡ những người tàn tật và những người quan quả cô đơn, khiến trong xã hội mọi người được sự tôn trọng giúp đỡ và yêu thương, khiến cho đất nước được thái bình an lạc, đó đều là những hành vi yêu nước. Mà yêu nước yêu dân cũng nên học và làm theo tinh thần yêu nước của Đức Phật.

 

Lấy đức báo oán

 

Vua Trường Thọ vốn nhân từ, thường mang lòng từ bi thương xót nhân dân, trong nước mưa hoà gió thuận, nước giàu dân mạnh, và cũng vì thế khiến cho nhà vua nước láng giềng nổi lòng tham, xuất binh xâm đoạt.

Khi biết được quân địch đang tiến tới biên giới, nhà vua không muốn vì bảo vệ vương quyền của mình mà đem tai hoạ đến cho những người dân vô tội, bèn quyết định bỏ ngai vàng để cùng với con trai là Trường Sanh ẩn vào trong núi rừng. Vua tham không tốn chút sức lực nào mà chiếm được đất nước, lại ra lệnh trọng thưởng cho những ai bắt được cha con vua Trương Thọ.

Vua Trường Thọ lúc đó đang tu tâm trong núi rừng, vì để giúp đỡ cho vị Phạm chí từ xa đến nương tựa vào mình, nên tự nguyện xả thân, để cho vị Phạm chí bắt mình nộp cho vua lãnh thưởng. Vua nước láng giềng tàn bạo, khi bắt được vua Trường Thọ liền cho dùng lửa đốt tại ngã tư đường để thoả mãn lòng tham ác độc của mình. Lúc gần chết, nhà vua giật mình nhìn thấy đứa con trai đang giả làm người tiều phu lẫn lộn trong đám người. Đôi mắt người con bốc ra lửa giận tràn ngập sự hận thù. Vua Trường Thọ bèn ngửa mặt lên trời, nói lời di chúc là Ngài lấy lòng nhân để trị nước, để đối đãi người, hy vọng Trường Sanh cũng kế thừa tinh thần lấy đức bào oán ấy của mình. Mặc dù nghe lời dạy sau cùng của cha, nhưng thấy cha chết quá thê thảm, lại thêm mối hận thù nước mất nhà tan ngày đêm nung nấu thêm thâm sâu, khiến cho vị thái tử trẻ tuổi trong lòng chỉ có một niệm là tìm cơ hội báo thù, trừ sự oán hận trong tâm. Vì thế Trường Sanh đã lợi dụng tài nghệ của mình, xin làm người giúp việc cho quan đại thần, Không lâu sau được khen thưởng, từ đó trở thành người hầu bên cạnh nhà vua.

Một lần theo hầu nhà vua đi săn bắn, Trường Sanh cố ý đưa nhà vua xa đám tuỳ tùng và lạc đường trong rừng. Sau một ngày vô cùng mỏi mệt, muốn được nghỉ ngơi, vua bèn tháo thanh kiếm đeo bên mình, giao cho Trường Sanh bảo quản. Đợi cho vua tham ngủ say, Trường Sanh nắm bắt cơ hội ngàn năm khó gặp này, rút kiếm ra làm tròn nguyện ước của mình. Khi chuẩn bị hạ thủ, lời đinh ninh dặn dò của cha trước lúc lâm chung bỗng vang lên bên tai, đã cảm hoá lòng cố chấp mong muốn trả thù của Trường Sanh, khiến chàng từ từ tra kiếm vào vỏ. Cùng lúc đó, vua tham giật mình tỉnh dậy, bất an nói:

- Ta nằm mộng thấy con của vua Trường Thọ muốn giết ta, làm sao đây ?

- Đại vương không nên sợ sệt, có tiện nhân ở đây bảo vệ cho Ngài.

Nghe những lời an ủi của Trường Sanh vua tham yên dạ lại nằm ngủ ngon lành. Suy nghĩ nhiều lần, chàng quyết định tuân theo lời dạy lấy đức báo oán của cha, tha thứ, chủ động nói rõ thân phận thực của mình cho vua tham nghe và thỉnh cầu:

- Xin Ngài giết tôi đi, để tránh tâm niệm báo thù của tôi có ngày bộc phát.

Vua tham thấy hành vi nhân từ lấy đức báo oán của cha con vua Trường Thọ vô cùng cảm động, ngay lúc đó tỉnh ngộ hối cải, trả đất nước lại cho Trường Sanh và hai nước kết nghĩa anh em.

 

(Bổn sanh Vua Trường Thọ – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Có câu : “Từ bi không có kẻ thù, trí huệ không có phiền não” Lòng từ bi chân thực, không chỉ là thương những người mình thương, mà còn phải rộng lượng tha thứ, yêu thương cả kẻ thù của mình, và lòng khoan dung như thế phát xuất từ trí huệ hiểu biết rằng người và ta cùng một thể, yêu người như yêu mình. Khi người dùng thái độ vô lý, xấu ác đối xử với chúng ta, chúng ta càng phải học tập lấy từ bi bao dung cho mọi người, lấy lý trí để xử lý mọi việc, lại học tập tấm lòng của cư sĩ Duy Ma “vì chúng sanh bệnh, nên ta bệnh” thương xót sự vô tri dại khờ của người, thầm cầu nguyện Phật lực gia trì đối phương sớm quay đầu tỉnh ngộ, đừng làm những việc hại người hại mình nữa.

 

Người đẹp và tiên nhân

 

Có một vị tiên nhân tên là Định Quang, cùng năm trăm vị tiên nhân ở trong túp lều cỏ trong núi. Lần nọ, có một cô gái đẹp tình cờ ngang qua, bị phong hàn, không chỗ tránh mưa. Cô gái ấy bèn xin ở nhờ một đêm, Định Quang đồng ý cho phép ở. Hôm sau, cô gái đi ra khỏi túp lều tranh, bị những vị tiên nhân khác nhìn thấy, bèn có lời đồn rằng Định Quang ắt đã cùng với cô gái đó ở chung, có hành vi không thanh tịnh. Khi ấy, Định Quang biết được ý niệm của các vị tiên kia, sợ rằng vì sự phỉ báng sinh sự của họ mà phải đoạ vào địa ngục bèn dùng thần lực của mình bay lên hư không, ở trong hư không thi triển mười tám phép thần kỳ biến hoá của mình. Các vị tiên nhân thấy cảnh tượng đó nói rằng:

- Thân có thể bay cao như vậy, tức là không có lòng dâm dục, huống hồ lại có thể thi triển thần thông biến hoá trên hư không, làm sao là có thể làm việc tà dâm được? Chúng ta sinh lòng phỉ báng đối với một vị thanh tịnh như vậy thật là có tội.

Vì thế năm trăm vị tiên ngũ thể đầu địa thành tâm sám hối, vì thế được miễn trừ tội nặng phỉ báng.

 

(Tạp Bảo tạng kinh quyển 3)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Sự vĩ đại của tiên nhân Định Quang không những đạo đức kiên định mà còn ở chỗ thông đạt thế sự và sự hiểu biết khoan dung của Ngài đối với người. Khi gặp phải người hoài nghi, vẫn tin tưởng mình và khoan dung tha thứ cho người. Khi bạn có thể tha thứ những người khó thể tha thứ thì thế gian này thuộc về bạn.

 

Người gỗ

 

Thuở xưa có một vị quốc vương rất ưa thích nghệ thuật, lúc đó có một người thợ mộc tay nghề rất cao đến nước đó kiếm sống. Người thợ mộc làm một người bằng gỗ có cơ quan điều khiển, hình dáng rất đẹp, tướng mạo đoan chính, lại có thể ca hát, nhảy múa, nhanh nhẹn như một thiếu niên. Người thợ mộc mặc cho người gỗ bộ đồ xinh đẹp giống như người thật vậy.

Người thợ mộc biết được sự ưa thích của nhà vua, bèn đem người gỗ đó đến gặp quốc vương nói:

- Hạ thần sinh đứa con trai này đã lâu. Nó ở đất nước, có vinh dự rất lớn, mỗi lần biểu diễn đều được rất nhiều quà tặng.

Nhà vua nghe xong, rất vui vẻ bèn cho phép người thợ mộc đem người gỗ vào biểu diễn. Nhà vua và hoàng hậu ngồi ở trên lầu thưởng thức. Lúc đó người gỗ biểu diễn đủ thứ ca vũ, âm thanh thánh thót, diệu múa nhẹ nhàng, lưng và tay chân vô cùng linh hoạt, kỳ diệu, khiến cho nhà vua và hoàng hậu xem đến mê thích, cảm thấy hưng phấn vô hạn. Vào lúc này, người gỗ bỗng nhiên liếc hoàng hậu một cái. Quốc vương nhìn thấy, nổi giận lôi đình, la rằng:

- Đứa con nít không có giáo dục này, lại dám sinh tâm tà niệm, dám chọc ghẹo hoàng hậu của ta, thật là tội nặng vô cùng !

Lập tức hạ lệnh lôi ra chém đầu thị chúng. Người thợ mộc kinh hãi, lập tức quỳ xuống khẩn cầu:

- Tôi chỉ có đứa con này, nó là tim gan của tôi, nằm, ngồi, đi, đứng đều không lìa khỏi nó. Nhờ vậy tôi mới giải trừ cái khổ cô độc đơn chiếc lúc về già. Tội lỗi này thật vượt ra ngoài ý muốn. Nếu Ngài giết nó tôi cũng không sống nổi. Xin đại vương khai ân tha thứ cho nó lần này!

Lúc đó, đại vương lửa giận tràn ngập nhất quyết không tha thứ. Người thợ mộc lại thưa:

- Đại vương đã kiên quyết không tha, thì xin cho phép tôi tự tay giết chết nó.

Được quốc vương đồng ý, người thợ mộc bèn đứng trước người gỗ, từ ở trên vai ở người gỗ nhẹ nhàng kéo ra cái chốt, thì toàn bộ cơ quan đều tan rã, người gỗ biến thành một đống gỗ vụn. Nhìn thấy cảnh đó, quốc vương giật mình: “Ta làm sao lại nổi nóng với một đống gỗ?”, và thầm khen ngợi nghệ thuật cao minh của người thợ mộc, bèn ban thưởng cho người thợ mộc vạn lượng vàng ròng.

 

(Phật thuyết quốc vương ngũ nhân – Sanh kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Quốc vương cho giả là chân, bị người gỗ bỡn cợt, làm mất sự bình tĩnh xử lý công việc. Khi người gỗ biến thành một đống gỗ, tất cả huyễn cảnh xinh tươi biến thành không, mới phát hiện hành vi tức giận thái quá làm mất thể diện của mình biết bao. Cần phải khoan dung tha thứ đối đãi với người, tha thứ cho người tức là tha thứ cho mình.

 

Chương sáu

Xem trọng thân tình

 

Khỉ chúa cứu mẹ

 

Thủa xưa, trong một khu rừng rậm rạp ở núi Tuyết, có con khỉ chúa hướng dẫn năm trăm con khỉ trong rừng cây tìm kiếm thức ăn, lúc đó có người thợ săn dùng lưới giăng bẫy để bắt đàn khỉ, một số con đã bị sa bẫy. Thấy thế, khỉ chúa vẫn bình tĩnh bảo với đàn khỉ đang bị mắc nạn trong lưới:

- Các ngươi không nên lo lắng sợ sệt, ta sẽ phá lưới này giải cứu mọi người đến nơi an toàn.

Đàn khỉ dưới sự lạnh đạo của khỉ chúa đều được thoát khỏi hiểm nguy. Trong lúc giải cứu mẹ của khỉ chúa sơ ý rơi vào hố sâu bên vệ đường. Khỉ chúa vì lo giải cứu đàn không thấy mẹ bị rơi vào trong hầm sâu. Trên đường trở về chỗ ở, khỉ chúa mới phát hiện mẹ của mình không thấy đâu nữa. Vì thế khỉ chúa lại hướng dẫn đàn khỉ trở về tìm kiếm. Cuối cùng phát hiện mẹ của mình ở dưới hố sâu, lúc này khỉ chúa vận dụng trí huệ, bảo đàn khỉ cùng nắm lấy đuôi nhau nối dài vào trong hố sâu, còn tự mình thì xuống hố, kéo mẹ cứu lên.

 

(Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Cứu giúp cha mẹ ra khỏi tai ương khổ nạn có công đức lớn vô lượng vô biên. Đức Phật Tổ do vì từ đời quá khứ cho đến hiện tại tiêu trừ khổ nạn cho cha mẹ của mình nên đời đời kiếp kiếp được quả báo không có khổ nạn, vì thế đại chúng cần phải hiếu thuận với cha mẹ. Nuôi dưỡng dạy dỗ con cái là trách nhiệm của cha mẹ, cũng như thế, hiếu kính cha mẹ là nghĩa vụ cần phải tận tâm, tận lực của con cái. Khỉ chúa còn có thể vào trong nguy hiểm cứu mẹ, huống chi chúng ta là tối linh trong vạn vật?

 

Voi hiếu

 

Thủa xưa có hai vị quốc vương, một vị là vua Ca Thi, một vị là Tỳ Đề. Vua Tỳ Đề có con voi sức mạnh vô cùng, cho nên rất dễ dàng đánh bại quân đội của vua Ca Thi. Vua Ca Thi vì để rửa mối nhục, bèn hạ mệnh lệnh khắp nước: Nếu có ai có thể bắt được con voi cường tráng dâng vua sẽ được trọng thưởng. Lúc đó, người ta phát hiện một con voi trắng lớn trong núi, quốc vương lập tức phái quân lính lên núi lùng bắt. Chú voi cường tráng này không có ý niệm trốn chạy, ôn hoà thuần thục để lính dẫn về hoàng cung. Nhà vua được con voi trân quý như vậy vô cùng hoan hỷ, xây một cái nhà thiệt đẹp cho nó, trong nhà lại lót thảm mềm mại, cho voi ăn những đồ ngon thượng hạng. Rồi sai người đờn cho nó nghe, nhưng voi kia vẫn không chịu ăn uống. Vua Ca Thi nghe nói lập tức đến xem, hỏi rằng:

- Tại sao ngươi không ăn?

Voi trả lời:

- Cha mẹ già của tôi ở trong núi, chân đã yếu, mắt đã mù, không cách nào kiếm ăn, nhất định đói lả người, chỉ nghĩ đến việc này tôi không thể nuốt được. Tâu đại vương ! Nếu Ngài tha, cho phép tôi trở về hiếu dưỡng mẹ cha, khi cha mẹ tôi chết, tôi sẽ chủ động trở lại để làm việc cho bệ hạ.

Vua Ca Thi nghe nói vô cùng cảm động, bèn thả voi trở về núi, đồng thời hạ lệnh, nhân dân trong nước đều phải hiếu dưỡng, cung kính mẹ cha, nếu ai bất hiếu bèn bị xen như bị trọng tội, sau đó vài năm, tượng già chết đi, voi y theo lời hứa quay lại hoàng cung, vua ca Thi vô cùng vui mừng lập tức sai nó tấn công nước Tỳ Đề. Nhưng voi lại khuyên nhà vua nên hoá chiến tranh thành hoà bình và tình nguyện đi đến nước Tỳ Đề làm sứ giả hoà bình. Quả nhiên, voi đã hoá giải được mối oán thù giữa hai nước, khiến cho nhân dân hai nước đều được an cư lạc nghiệp.

 

(Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Lúc còn nhỏ thường cho rằng cha mẹ quan tâm lo lắng cho mình là việc đương nhiên, không bao giờ biết cảm ân. Lớn lên mới biết ân đức của cha mẹ sâu nặng: “Mẹ già trăm tuổi tóc sương. Lo con tám chục năm trường chưa thôi”. Tấm lòng như thế, sự nhớ nhung như thế, thực không có cách nào báo đáp. Sự hiếu thuận của voi thật là tấm gương cho chúng ta học theo.

 

Lòng hiếu chim Anh vũ

 

Trong núi Tuyết có con chim Anh vũ, cha mẹ đều mù mắt, nó thường kiếm những trái cây ngon ngọt dâng cho cha mẹ ăn xong rồi mình mới ăn.

Lúc đó có vị địa chủ, khi gieo trồng có phát nguyện :

- Lúa gạo mà tôi trồng đây, nguyện cho chúng sanh cùng hưởng.

Chim Anh vũ biết được lời nguyện bố thí của người địa chủ, nên thường bay đến nhặt thóc nuôi dưỡng mẹ cha. Địa chủ khi đi xem xét ruộng đất, nhìn thấy đàn chim ăn lúa, vô cùng tức giận, bèn đặt lưới bắt chim. Anh vũ nói rằng:

- Do ông trước có thiện tâm, bố thí không tiếc, vì thế tôi mới dám đến lấy lúa, tại sao nay lại bắt tội? Ruộng là mẹ, giống là cha, lúa là con, ông là vua, mặc tình do ông chi phối.

Nghe câu nói đó, địa chủ vui vẻ hỏi:

- Ngươi lấy lúa để làm chi?

Anh vũ trả lời:

- Tôi có cha mẹ đôi mắt đã mù, lấy lúa về để nuôi dưỡng mẹ cha.

Địa chủ nói:

- Từ nay về sau thường lại đây lấy lúa về nuôi dưỡng mẹ cha, không cần phải sợ sệt lo lắng nữa.

 

(Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Lòng hiếu cảm động trời đất như lòng hiếu của chim Anh vũ đối với cha mẹ mù, địa chủ mới khảng khái cho phép Anh vũ mặc tình lấy lúa nuôi dưỡng mẹ cha. Người ở thế gian cũng như vậy, cảm động vì sự hiếu thảo của người mà thay đổi hành vi ngôn ngữ bất hiếu của mình rất nhiều.

 

Nàng dâu hại mẹ chồng

 

Thuở xưa có một người Bà la môn, vợ của ông ta trẻ đẹp, nhưng cuộc sống vô cùng phóng túng. Cô ghét người mẹ chồng làm chướng ngại khiến cô không thể mặc tình làm việc sai quấy của mình, bèn nghĩ ra độc kế hại mẹ. Cô nói với chồng:

- Em chỉ có thể dùng những món ngon vật lạ ở thế gian nuôi dưỡng mẹ già, nhưng đối với mẹ lợi ích không lớn. Nếu như có thể dùng những món ở cõi trời nuôi dưỡng mẹ thì lợi ích hơn nhiều. Anh có cách nào khiến cho mẹ có thể sanh thiên?

Người chồng nói:

- Theo phương pháp của Bà la môn thì đào một hầm sâu, dưới đốt một đống lửa đỏ rồi nhảy vào đó, đốt cháy thân thể thì có thể sanh lên cõi trời.

- Nếu có cách hay như vậy, tại sao không để cho mẹ sanh thiên hưởng thụ những vật phẩm của cõi trời, cần gì phải dùng những món ăn ở loài người?

Người chồng nghe lời người vợ, bèn vào rừng đào một cái hầm lớn, chất một đống củi ở dưới rồi nổi lửa lên. Khi lửa cháy đỏ, hai vợ chồng bèn đem người mẹ già đến bên miệng hầm đẩy xuống rồi đi về nhà. Trong hầm lửa có cái hố, may thay người mẹ rơi đúng vào chỗ này, thoát chết trong gang tấc. Bà dùng hết sức bò lên, khi đến miệng hầm trời đã tối đen như mực, trên đường trở về nhà, phải đi ngang qua rừng rậm âm u, người mẹ chồng sợ cọp, sói và quỷ la sát nên trèo lên cây ngủ đêm trên đó. Lúc đó vừa vặn có một đám cướp trộm rất nhiều của cải vàng ngọc, đến dưới gốc cây nghỉ ngơi. Bà sợ quá không dám nhúc nhích, sau đó nhịn không được, ho lên một tiếng. Đám cướp cho rằng tiếng của ác quỉ, sợ hãi bỏ lại tiền của, vàng ngọc để chạy thoát thân. Trời sáng, người mẹ chồng trèo xuống, trong đống vàng ngọc, châu báu của bọn cướp để lại, bà lấy một ít châu báu rồi trở về nhà. Người con và nàng dâu nhìn thấy mẹ già trở về, vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi. Mẹ chồng vì để trừng phạt nàng dâu bất hiếu nói:

- Sau khi mẹ chết được sanh lên cõi trời, được rất nhiều vàng ngọc châu báu.

Lại nói với nàng dâu:

- Những ngọc trai, bông tai này là của cha mẹ, cô dì của con nhờ mẹ đem về cho con. Nhưng vì mẹ già sức yếu không đem được nhiều. Họ nói con tự đi lấy, muốn cái gì họ cho cái đó, muốn bao nhiêu cũng được.

Nàng dâu nghe như vậy vui mừng, muốn mình cũng nhảy vào hầm lửa như mẹ chồng, nên nói với chồng:

- Mẹ vì nhảy vào hầm lửa mới được nhiều vàng ngọc châu báu như vậy, nhưng vì sức mẹ quá yếu không thể mang được nhiều. Nếu em đi nhất định sẽ đem rất nhiều vàng ngọc châu báu trở về.

Người chồng bèn y theo lời vợ, lại đào một cái hầm lớn, trong hầm lại có một đồng củi thật lớn, lửa cháy hừng hực, người vợ lập tức nhảy vào, kết quả mất đi thân mạng.

 

(Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Không muốn phụng dưỡng cha mẹ là bất hiếu, ghét bỏ cha mẹ thậm chí làm nguy hại đến tính mạng cha mẹ là đại bất hiếu. Hành vi như thế sớm muộn gì cũng bị trừng phạt.

 

Nước bỏ người già

 

Ngày xưa có một quốc gia tên là Ba La Nại. Đất nước này vốn rất giàu có, nhưng trải qua nhiều năm thiên tai bão lụt nên nguyên khí nước nhà bị thương tổn, khắp nơi mất mùa, khiến cho cuộc sống nhiều người dân càng ngày càng đói khổ, không cơm ăn áo mặc.

Có gia đình nọ chỉ có một người con trai, nhưng cháu nội rất nhiều. Người con trai nhìn thấy những đứa con của mình mỗi ngày chỉ có thể ăn rau với một ít gạo nấu thành cháo lỏng, đứa nào đứa nấy đói ruột cồn cáo, ốm o như cây củi, nên rất thương tâm.

Vì để cho con mình được ăn no một chút, sống qua cơn đói, người con trai bèn nhẫn tâm đem cha mẹ lúc đó tuổi đã già không thể làm việc gì được, đem đi chôn sống. Như vậy, trong nhà bớt đi hai người ăn không ngồi rồi, và cũng giảm đi gánh nặng cho gia đình.

Sau đó vài ngày, những người hàng xóm không thấy hai ông bà già mỗi ngày ra vô phơi ánh nắng mặt trời và trò chuyện với những ông bà già khác, cảm thấy lạ lùng, bèn hỏi đứa con:

- Ông bạn hàng xóm của tôi ơi, nhiều ngày không thấy cha mẹ của bạn, không biết họ đi đâu rồi ?

Người con trả lời:

- Ôi ! Cha mẹ của tôi đã già rồi, sớm muộn gì cũng chết, cho nên tôi đem họ chôn sống rồi, dùng phần lương thực của họ nuôi sống mấy đứa con, để cho nó được lớn lên thành người.

Vì cuộc sống của mọi người lúc đó rất khổ cực, nên nghe anh ta nói như thế, bà con hàng xóm đều cảm thấy có lý, nếu lấy phần lương thực dùng để nuôi người già đem nuôi đứa trẻ, không phải là hay hơn sao ? Vì thế nên học theo cách của anh ta, đem chôn sống cha mẹ già. Một truyền mười, mười truyền trăm, cùng nhau bắt chước, cách làm này rất nhanh đã trở thành một phong tục của nước Ba La Nại và trở thành một điều pháp luật chính thức: “Không ai được nuôi dưỡng người già trong nhà, nếu trái luật thì cả nhà sẽ bị xử tử hình”. Một phần để tôn trọng luật pháp, một phần vì vấn đề sinh kế gia đình nên nhà nào cũng như nhà nấy, nói đúng hơn là cả nước đều coi thường người có tuổi. Như thế, hễ trong nhà cha mẹ bắt đầu có tuổi là lập tức bị gia đình chôn sống, còn người tạm thời chưa bị chôn sống, thì ngày đêm lo lắng, không biết ngày giờ nào mình bị đem đi chôn sống.

Nhưng thiên tính của nhân loại không thể hoàn toàn bị tiêu diệt, nên có một số người không tán đồng cách xử sự ấy. Như lúc ấy trong nước có người con của một vị trưởng giả, nhìn thấy phong tục tập quán như thế cho rằng việc làm này thực là tổn thương đạo lý, đại nghịch bất hiếu, nghĩ rằng: “Nếu cứ như vậy, thì phẩm hạnh đạo đức của người trong nước càng ngày càng kém, cần phải mau chóng nghĩ ra phương cách để phế trừ cái điều pháp luật không hợp lý này”.

Vì thế bèn nói với cha rằng:

- Thưa cha! Cha đi đến một nơi thật xa để học tập, khi nào cha học xong trở về, thì chúng ta cùng nhau suy nghĩ tìm phương cách để phế trừ cái điều pháp luật ác ôn này, để cứu những người già trong nước.

Vì thế người cha bèn đi đến một quốc gia rất xa để học tập, chuyến đi hơn mười năm. Khi người cha học xong trở về thì đã rất già. Vì để trốn cái vận mệnh bị chôn sống, đứa con bèn lén đào một căn hầm dưới đất cho cha, đem giấu cha mình dưới đó, mỗi ngày cung phụng thức ăn, vật uống cho cha mình dùng.

Vì mong muốn phế trừ điều pháp luật vô lương tâm như thế, người con nặn đầu, nặn óc, suy nghĩ phương kế, nhưng nghĩ không ra cách nào. Anh rầu rầu không vui, lẩm bẩm tự nói một mình:

- Ai có thể phát thiện tâm, giúp tôi trừ bỏ được điều pháp luật không hợp lý này?

Vừa vặn trong lúc ấy, có vị thiên thần đi ngang qua, nghe anh than thở, rất cảm động vì lòng nhân từ của người con, nên nói với anh ta rằng:

- Ngươi không nên lo lắng, ta sẽ giúp nhà ngươi.

Vị thiên thần bèn lấy ra một tờ giấy, viết bốn câu hỏi :

1. Trên thế gian này tài vật quý nhất là gì ?

2. Trên thế gian này điều sung sướng nhất là gì ?

3. Trên thế gian này có mùi vị ngon nhất là gì ?

4. Trên thế gian này thọ mạng dài nhất là gì ?

Viết xong bèn dán tờ giấy này ở cửa hoàng cung, đồng thời có thêm lời cảnh cáo quốc vương rằng:

- Nếu ngươi có thể giải đáp những câu hỏi này, thiên thần sẽ bảo hộ cho đất nước của nhà ngươi không bị xâm hại, nếu không thể giải đáp, bảy ngày sau, ta sẽ đập đầu nhà ngươi thành bảy mảnh.

Ở dưới ký tên “Thiên thần”.

Hôm sau vệ binh canh gác ở ngoài hoàng cung phát hiện trang giấy vội vàng bẩm báo lên nhà vua. Quốc vương nhìn thấy những câu hỏi trên trang giấy, ngẩn người ra, lo sợ muốn chết. Nhà vua hỏi các quan đại thần ai có thể giải đáp những câu hỏi này, các quan đại thần đều cứng lưỡi, lén dòm mặt nhau, không ai có thể trả lời. Nhà vua nhìn thấy các quan đại thần không ai có thể trả lời bèn mắng rằng: “Toàn là đồ phế vật”. Cuối cùng chỉ còn cách chép lại bốn câu hỏi, dán khắp các nẻo đường, hy vọng có người nào trong nước giải đáp được. Tờ công văn tuyên bố:

- Nếu người nào có thể giải đáp những câu hỏi này, thì muốn gì sẽ được nấy.

Người con trai của vị trưởng giả bóc tờ yết thị, và trả lời bốn câu hỏi rằng:

1. Lòng tin là tài vật quý nhất.

2. Học Phật pháp là niềm vui lớn nhất.

3. Lời nói chân thật có mùi vị ngon nhất.

4. Trí huệ có thọ mạng dài nhất.

Trả lời xong, liền đem câu trả lời dán ở ngoài cửa hoàng cung. Thiên thần nhìn thấy câu trả lời vô cùng viên mãn, tâm cũng rất hoan hỷ. Những vị quan đang đứng canh gác ở đấy lập tức đem các câu trả lời này trình lên vua. Nhà vua đọc xong cũng rất vui mừng, bèn xuống chỉ cho vời con trai của người trưởng giả vào cung.

Nhà vua hỏi rằng:

- Ai dạy ngươi trả lời các câu hỏi này? Và trả lời hay như vậy?

Người con của vị trưởng giả trả lời:

- Do cha của tiện dân dạy cho tiện dân.

Nhà vua lại hỏi:

- Cha của ngươi hiện nay ở đâu?

- Muôn tâu đại vương ! Xin Ngài tha tội cho tiện dân, tiện dân mới dám nói. Cha của tiện dân tuổi đã già, nhưng tiện dân không nhẫn tâm đem cha già chôn sống. Tiện dân đã vi phạm pháp luật của nhà nước, không đem chôn sống cha mình mà giấu cha dưới căn hầm dưới đất. Tại sao vậy ? Xin Ngài nghe tiện dân nói: Ân đức của cha mẹ nặng hơn núi Thái. Mẹ mười tháng hoài thai, đau khổ sinh con, sinh con ra rồi lại mớm cơm mớm sữa, dạy dỗ, trải qua trăm ngàn cay đắng mới nuôi dưỡng con cái lớn lên thành người. Chúng ta sở dĩ có thể nhìn thấy trời đất, sinh trưởng ở cõi đời này, đều do mẹ cha ban cho, đều là ân đức của cha mẹ. Dù chúng ta vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, trải trăm nghìn kiếp, cung phụng cha mẹ suốt cuộc đời mình cũng không báo đáp được ân tình của cha mẹ.

Nghe lời nói của người con trai vị trưởng giả, nhà vua vô cùng xúc động, bèn hỏi:

- Lời nói của ngươi rất có lý. Nay nhà ngươi có yêu cầu gì ?

Con trai của vị trưởng giả trả lời:

- Tiện dân không có yêu cầu gì khác, chỉ mong báo đáp ân sâu dưỡng dục của cha mẹ, kính xin đại vương phế trừ điều pháp luật chôn sống cha mẹ không hợp lý này.

Nhà vua nghe rồi, vừa cảm động bởi lời nói của người con, lại càng cảm động hơn bởi tấm lòng hiếu kính, cùng với tâm niệm cứu giúp người già cả của người con, bèn tuyên bố khắp nước:

- Từ đây trở về sau, nếu phát hiện những người chôn sống cha mẹ già và bất hiếu với cha mẹ thì sẽ xử tội thật nặng.

Từ đó trở về sau, điều pháp luật không hợp lý này đã bị phế trừ. Người dân nước Ba La Nại trở nên những người hiếu thảo bậc nhất, biết tôn kính người lớn tuổi già nua.

 

(Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Đáng thương cho tấm lòng của cha mẹ ở cõi đời này! Ăn cay nuốt đắng nuôi dưỡng con cái trưởng thành, cuối cùng lại bị con của mình chôn sống dưới đất, bỏ đi sinh mạng một cách oan uổng. Thật là không có thiên lý đạo nghĩa! Cọp dữ còn không ăn thịt con, chôn sống cha mẹ thật không bằng cầm thú vậy. Nhưng thiên lương cuối cùng chiến thắng tội ác, điều luật tàn nhẫn chôn sống người già cuối cùng đã bị phế trừ ! Mong sao các bậc cha mẹ trong cõi đời này từ đây có thể hạnh phúc, an vui, không vì con cái bạc bẽo mà oan uổng bỏ đi tính mạng !

Đức Phật dạy: “Hiếu dưỡng, cung kính cha mẹ, tức là hiếu dưỡng cung kính chư Phật mười phương ba đời cùng các bậc Thánh hiền, đây là điều rất đáng quý”. Trong vòng luân hồi sinh tử, vô lượng chúng sinh từng làm cha mẹ của chúng ta, cho nên chúng ta cần phải mở rộng tấm lòng biết ân, báo ân cho tất cả chúng sinh. Mọi người đều làm được như vậy, thế giới này nhất định sẽ càng an lạc, hạnh phúc.

 

Thái tử Nhẫn Nhục

 

Thời Đức Phật Tỳ Bà Thi, quốc vương nước Ba La Nại rất thông minh, hiền đức, được toàn dân yêu kính, nhưng nhà vua không có con, điều này làm cho nhà vua suốt ngày lo buồn không thôi. Sau đó trải qua hơn hai mươi năm cầu nguyện thần linh, cuối cùng hoàng hậu sinh được một đứa con trai. Đứa con trai này tâm địa rất từ bi, hiền lành, tướng mạo vui vẻ hiền hoà, có tướng của bậc đại nhân. Quốc vương vô cùng thương yêu, chiêu tập các quan đại thần đoán việc tốt xấu cho thái tử, và đặt tên cho con là Nhẫn Nhục.

Thái tử Nhẫn Nhục ngày càng lớn, rất ưa thích làm việc từ thiện, bố thí, chan chứa tấm lòng nhân từ đối với tất cả chúng sinh. Trong triều có một viên quan đại thần, nhìn thấy thái tử hiền đức như thế bèn sanh lòng đố kỵ, muốn phế đi thái tử. Lúc đó, quốc vương bỗng bệnh nặng, mạng sống không bao lâu. Trong nước trên dưới đều lo lắng cho sức khoẻ của nhà vua, thái tử Nhẫn Nhục bèn chiêu tập tất cả quần thần lại, nói:

- Bệnh tình của phụ vương ta vô cùng nguy hiểm, chúng ta nên tìm biện pháp cứu sống Người, các ngươi có cao kiến gì không ?

Chúng đại thần trả lời:

- Linh đan diệu dược khó mà tìm được, tính mạng của quốc vương e rằng kéo dài không được bao lâu.

Nhìn thấy mọi người không có cách nào cứu sống cha mình, thái tử đau thương, hôn mê ngã trên mặt đất. Tên gian thần thấy vậy mừng thầm nghĩ rằng: “Đây là cơ hội tốt phế đi thái tử!” Vì thế chờ thái tử tỉnh dậy, tên gian thần bèn hiến kế cho thái tử rằng:

- Muốn trị lành bệnh tình của nhà vua phải cần một thứ thuốc, nhưng thứ thuốc này rất khó tìm.

Thái tử vội vàng hỏi:

- Đó là thứ thuốc kỳ diệu nào vậy.

- Thưa Thái tử, đó là cặp mắt và cốt tuỷ của người không có lòng sân hận, nếu có được vị thuốc này, bệnh tình của quốc vương chắc chắn sẽ khỏi.

Thái tử nghe xong dường như có sự suy nghĩ, tự nói rằng: “Ta dường như là người có đủ điều kiện để dâng lên phụ vương món thuốc này” Thái tử trở về chỗ ở, lập tức từ biệt mẫu thân, rồi chiêu tập tất cả các quan đại thần và tuyên bố:

- Phụ vương bệnh nặng, sự nguy hiểm ở ngay trước mắt, nhưng toàn dân trong nước không thể thiếu đi sự thống lĩnh của người. Cho nên ta phải cống hiến mình để cho phụ vương được khoẻ mạnh.

Nói xong bèn gọi một người Chiên đà la đến, ra lệnh cho người này đập xương của mình để lấy cốt tuỷ và móc đôi mắt để trị bệnh cho phụ vương. Chúng đại thần nhìn thấy như vậy càng thêm kính phục thái tử, vô cùng cảm động trước sự xả thân cứu cha của thái tử, vội vàng đem cốt tuỷ và cặp mắt làm thuốc dâng cho nhà vua. Nhà vua dùng xong bệnh lập tức thuyên giảm. Nhà vua hỏi các quan đại thần:

- Đây là thuốc gì mà kỳ diệu như vậy? Có thể giải trừ nhanh chóng bệnh khổ của ta?

Chúng đại thần trả lời rằng:

- Thuốc này là do thái tử chế ra.

Nhà vua lúc đó mới nhìn thấy thái tử không có mặt, bèn vội vàng hỏi các quan đại thần:

- Thái tử nay ở đâu?

Các quan đại thần bi thương trả lời:

- Thái tử đang ở trong cung của người, thân thể đã tổn thương quá độ, e rằng không sống được bao lâu.

Nhà vua nghe xong bèn khóc lớn, lập tức đến chỗ thái tử, nhưng thái tử đã qua đời. Hoàng hậu lúc này cũng vội vàng đến chỗ của thái tử, ôm lấy thi hài của con khóc rằng:

- Đây là tội lỗi kiếp trước của ta, ta nên chết đi mới phải, tại sao lại để con chết thay cho ta như vậy ?

Quốc vương bèn dùng gỗ chiên đàn hương xây dựng một toà nhà lầu, giữ gìn thi thể của thái tử, lại để hài cốt của thái tử vào trong bảo tháp bảy tầng.

 

(Phẩm nghị luận – Kinh Đại phương tiện Phật báo ân)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Thân thể da xương là do cha mẹ ban cho, vì thế phải đem hết khả năng của mình báo đáp ân đức sâu dày của cha mẹ. Bệnh khổ của cha mẹ là bệnh khổ của chính mình, mạng sống của cha mẹ là mạng sống của chính mình. Để báo đáp ân sâu của cha mẹ dù có hy sinh tánh mệnh của mình cũng không có gì là thái quá!

 

Đồng tử Thiện Sanh

 

Xưa kia, Ấn Độ có một nước lớn tên là Xoa Thi La, nhà vua tên là Đề Bà. Vua Đề Bà có mười vương tử, mỗi người cai trị một đất nước nhỏ. Vương tử Thiện Trụ cai trị đất nước nhỏ nhất, nhưng đất nước ổn định, cuộc sống của người dân giàu có. Vua nước láng giềng tên là La Mục Hầu, vô cùng thèm muốn sự giàu có của nước Thiện Trụ, nên đem binh xâm lược, vương tử Thiện Trụ tuy đã hết sức chống trả, nhưng sức ít không chống nổi số đông, nên đành để mất nước, chạy trốn về nước Xoa Thi La của cha mình.

Lúc đó vương tử Thiện Trụ có một đứa con trai tên là Thiện Sanh, năm nay mới bảy tuổi rất dễ thương. Vợ chồng vương tử Thiện Trụ bồng đứa con trong chiến tranh binh hoang mã loạn chạy trốn ra khỏi đất nước của mình. Từ nước của vương tử Thiện Trụ đến nước của vua cha phải đi bảy ngày, giữa đường phải đi ngang một vùng hoang vắng không có bóng người. Họ đem theo bảy ngày lương thực lên đường chạy trốn, không ngờ bị lạc đường, sau bảy ngày vẫn chưa đến đất nước của vua cha mà lương thực đã hết, cả ba người e rằng sẽ bị chết đói.

Vương tử Thiện Trụ suy nghĩ: “Không thể để cho ba người đều bỏ mạng trên đường, phải hy sinh một người để cho hai người kia được sống”. Nhìn thấy phu nhân đang dắt tay đứa con đi phía trước, Vương tử bèn rút đao chém vào lưng vợ của mình, chính vào lúc ấy, Thiện Sanh quay đầu nhìn thấy, vội vàng ngăn cản cha, nói:

- Không thể giết mẹ của con, trên đời làm gì có việc con ăn thịt mẹ để sống? Xin phụ vương giết con đi ! Nên lấy thịt của con làm lương thực cho cha mẹ mới đúng.

Thiện Sanh nói xong, ôm chặt lấy mẹ mình. Vương tử Thiện Trụ bỏ đao vào vỏ, nước mắt như mưa, Thiện Sanh nói với phụ vương:

- Xin cắt thịt của con để làm lương thực! Nhưng nếu con chết liền thì thịt của con sẽ bị hôi thối, vì thế không nên giết chết con, chỉ cần cắt từng miếng thịt để ăn, giữ lại mạng sống của con là được rồi.

Nhưng làm cha mẹ thì làm sao có thể nhẫn tâm lóc thịt của con. Thiện Sanh nhìn thấy như vậy bèn rút dao cắt thịt trên thân mình, quỳ xuống dâng cho cha mẹ. Vợ chồng vương tử Thiện Trụ kinh hoàng, bi thương than thở hồi lâu, cuối cùng chỉ đành làm theo ý nguyện của con mình, ăn thịt của Thiện Sanh. Mấy ngày liền, vợ chồng Thiện Trụ trong sự đau thương và đói khát tiếp tục cuộc hành trình. Cuối cùng trên thân của đồng tử Thiện Sanh, chỉ còn sót lại vài miếng thịt. Cha mẹ lấy đi những miếng thịt cuối cùng để làm lương thực, sau đó ngậm ngùi để hài cốt của con mình trên vùng đất hoang vắng, rồi rời khỏi nơi đó, Đợi cha mẹ đi rồi, đồng tử Thiện Sanh thầm cầu nguyện: “Cha mẹ ơi! Con nguyện cầu cha mẹ có thể bình an trở về nước và mong rằng công đức hy sinh tánh mạng của con, sau này có thể khai ngộ thành Phật, cứu độ tất cả chúng sanh”.

Thiện Sanh vừa nguyện đến đây, tam thiên thế giới nổi lên sáu loại chấn động, chư thiên đều ca ngợi tán thán rồi rơi nước mắt như mưa. Lúc đó, vua trời Đế Thích vì muốn thử tâm nguyện của đồng tử Thiện Sanh hoá làm một con sói đến ăn thịt. Thiện Sanh không mảy may sợ sệt nói:

- Tuy ta chỉ còn bộ xương nhưng cũng phát nguyện cho ngươi ăn đỡ đói.

Vua trời Đế Thích lập tức hiện nguyên hình tán thán rằng:

- Cắt thịt thân mình để nuôi sống cha mẹ thật là nghĩa cử hiếm có. Nếu ngươi có nguyện vọng gì, hãy nói thật cho ta nghe.

- Tôi không có nguyện vọng gì khác, chỉ mong muốn khai ngộ thành Phật.

- Thân thể của ngươi hiện nay không còn miếng thịt, chỉ còn bộ xương, đến mức độ như vậy, ngươi có hận cha mẹ của ngươi không ?

- Tôi không có tâm giận hờn. Nếu tôi có thể ngộ đạo thành Phật, thì xin nguyện trả lại bản lai diện mục cho tôi.

Lời nói của đồng tử Thiện Sanh vừa dứt, bỗng nhiên da thịt từ từ mọc ra, khôi phục lại thân hình dễ thương vốn có của đồng tử Thiện Sanh.

 

(Bồ tát bổn sanh man luận quyển 1)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Người biết tôn kính bậc bề trên, thông hiểu đạo lý, tu dưỡng đạo đức, phẩm hạnh, thì bốn loại lợi ích sẽ tăng trưởng: thọ mạng, sắc đẹp, an vui và sức mạnh. Kỳ thực, làm điều thiện lành cũng phải chú ý phương thức; rất nhiều việc thiện, ngoài nội dung thiện ra, phương thức cũng rất quan trọng. Chúng ta gieo trồng điều thiện lành hoàn toàn không phải chỉ nghĩ đến việc cầu thiện báo. Trong quá trình gieo trồng điều thiện, là cầu tâm ta được an, còn được hưởng quả báo, chỉ là sự thu hoạch ngoài ý nguyện của ta, chưa được quả báo tốt không có nghĩa là chúng ta gieo trồng điều thiện sai lầm.

 

La Ma nhường ngôi

 

Ngày xưa, khi mà người ta có thể sống đến hơn một vạn tuổi, có một vị đại vương tên là Thập Xa, thống lĩnh châu Diêm Phù Đề, ở phía nam núi Tu Di. Phu nhân lớn của vua Thập Xa sanh ra một đứa con trai tên là La Ma, phu nhân thứ hai sanh một đứa con trai đặt tên là La Mạn, đứa con của phu nhân thứ ba tên là Bà La Đà, đứa con của phu nhân thứ tư tên là Diệt Oán Ác. Trong những đứa con, Thái tử La Ma vô cùng dũng cảm, lại có sức lực như thần và có cung thần, tên thần, chỉ nghe tiếng tên bắn ra ắt sẽ bắn trúng địch thủ, không ai có thể chống cự.

Nhà vua thương nhất phu nhân thứ ba, từng nói với bà rằng:

- Ta nay ban cho nàng tất cả vàng bạc châu báu cũng không tiếc. Nàng muốn thứ gì ta đều thoả mãn.

Phu nhân thứ ba trả lời:

- Thiếp không có mong cầu gì… Sau này nếu có sẽ tâu bạch với bệ hạ.

Có lần đại vương lâm bệnh, mạng sống trong sáng chiều, bèn lập thái tử La Ma thay mình làm vua. La Ma đầu đội thiên khôi, hình thái uy nghi, như quy củ của bậc vua chúa.

Khi phu nhân thứ ba đến thăm bệnh của đại vương, nghe La Ma kế thừa vương vị của vua nên sanh lòng đố kỵ. Bà ỷ mình được vua yêu thương, nên xin vua đáp ứng lời hứa của mình:

- Thiếp muốn con của thiếp làm vua, xin bệ hạ hãy phế La Ma.

Đại vương nghe xong rất khó xử, thái tử đã được lập làm vua rồi, muốn phế thái tử không hợp với thể chế, nhưng trước đó đã hứa với phu nhân thứ ba. Vua Thập Xa, từ trước đến nay chưa từng thất tín, mà quy củ của vương triều cũng không thể trước sau trái nghịch, mất đi sự tín dụng. Nghĩ đến đây, nhà vua bèn phế La Ma.

Lúc này em của thái tử La Ma là La Mạn nói với anh rằng:

- Anh có thần lực dũng mãnh, lại có tên thần, cung thần tại sao không dùng mà chịu sự sỉ nhục này?

Thái tử La Ma trả lời:

- Làm trái nghịch ý muốn của đại vương là bất hiếu. Phu nhân thứ ba không phải là mẹ ruột của ta, nhưng phụ vương thương kính đối đãi, thì người cũng là mẹ của ta. Thêm Bà La Đà tánh tình hoà thuận, thực không có ý gì cả. Như ta đây, tuy có thần lực, thần cung, thần tiễn, há lại làm những việc không nên làm, có hại cho cha mẹ, anh em sao?

La Mạn nghe rồi im lặng không trả lời. Vua Thập Xa e ngại anh em khởi lên sự tranh chấp bèn đày hai anh em La Ma, La Mạn vào trong rừng sâu, ra lệnh mười hai năm sau mới được trở về kinh đô. Hai anh em nhận chiếu lệnh của phụ vương, không một lời oán hận, từ biệt mẹ cha, đi vào rừng sâu.

Thái tử Ba La Đà được lập làm vua, nhưng từ trước đến nay Ba La Đà rất tôn kính và thương yêu hai người anh của mình. Thái tử đi đến chỗ mẹ của La Ma lễ bái, cung kính hiếu thuận còn hơn cả trước đó.

Trong thời gian mười hai năm này, Ba La Đà nhiều lần đi thỉnh hai anh trở về nước, nhưng La Ma tâm ý kiên quyết, không muốn trở về. Ba La Đà biết nguyên nhân người anh lớn không chịu trở về bèn y thuận theo ý của anh. Ba La Đà lấy được chiếc giày da của La Ma làm tín vật đem về nước. Khi xứ lý việc nước, Ba La Đà thường đem chiếc giày của La Ma để trên ngai vàng, sớm tối lễ bái, xem như huynh trưởng. Ba La Đà còn thường sai người vào trong núi thỉnh mời hai anh trở về. Nhưng hai anh vì phụ vương có lệnh mười hai năm sau mới được trở về, kỳ hạn chưa mãn, vì tận hiếu, tận trung nên không dám trái nghịch lệnh của cha.

Thời gian mười hai năm đã sắp tròn, Ba La Đà lại nhiều lần khuyên thỉnh, La Ma cũng biết được em của mình kính trọng chiếc giày như kính bậc huynh trưởng, rất cảm động về tình nghĩa của người em nên trở về kinh đô. Khi trở về kinh đô, Bà La Đà lập tức nhường ngôi cho anh mình, La Ma từ chối nói;

- Phụ vương nhường ngôi cho em, ta không nên thay thế.

Ba La Đà lại nói:

- Anh là con trai đích tôn, người kế vị phải là anh.

Cứ nhiều lần nhường ngôi cho anh, La Ma không có cách nào chối từ bèn lên ngôi. Từ đó anh em hoà thuận vui vẻ, giáo hoá dân chúng tốt đẹp, khiến cho dân chúng đều được nương nhờ ân đức.

 

(Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Cha từ con hiếu, anh em thương yêu, đó là nguyện vọng tốt đẹp của tất cả những người có tâm địa thiện lành. Trong câu chuyện cha giữ lời hứa, con cái hiếu kính, anh em thương yêu lẫn nhau thật khiến cho người kính phục, thật là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo.

 

Vợ giả chết gạt chồng

 

Xưa kia, có một thanh niên cưới được người vợ rất đẹp, hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nhưng sau đó người vợ dần dần không còn tình cảm với người chồng nữa. Nàng ta có một tình nhân bên ngoài, ban đầu hai người còn lén lút tới lui, sau đó cảm thấy không được như ý nguyện, vì thế có ý định bỏ chồng trốn theo người yêu.

Thừa dịp người chồng đi buôn bán xa, người vợ bí mật nhờ bà già hàng xóm:

- Khi tôi ra đi, bà kiếm giúp tôi một xác chết của cô gái để trong nhà, khi chồng tôi trở về, bà nói là tôi đã chết.

Bà già chờ người vợ bỏ đi rồi, làm y như lời nàng dặn, kiếm một xác chết phụ nữ để trong nhà. Khi người chồng trở về bèn bảo với anh ta rằng:

- Vợ của ông đã chết rồi.

Người chồng lập tức chạy về nhà, nhìn thấy thi thể, tin rằng vợ mình đã chết thật rồi, thương tâm than khóc. Người chồng bèn gom rất nhiều củi và dầu, rồi đem thi hài người con gái ấy hoả táng, lấy xương tro để vào trong một cái túi, ngày đêm mang theo bên mình để kỷ niệm. Còn vợ chàng lúc ấy đã kết duyên cầm sắt với tình nhân. Nhưng trải qua một thời gian, người vợ lại chán người tình, lại tưởng nhớ đến người chồng cũ, bèn quay trở về nhà của mình, nói với người chồng rằng:

- Em là vợ của anh, nay đã trở về.

Người chồng trả lời:

- Vợ của tôi chết đã lâu rồi, nàng là ai? Tại sao lại nói dối là vợ của tôi?

Người vợ nói:

- Đó là em giả chết, thi thể thực là của người khác.

Người chồng nói:

- Tôi không tin. Vợ của tôi rõ rằng đã chết rồi. Tự tay tôi lo việc tang sự, làm sao có thể là người khác được? Không nên gạt tôi. Cô đi đi!

Mặc dù có giải thích như thế nào đi nữa, người chồng cũng không chịu tin, cuối cùng người vợ cũng đành bỏ nhà đi.

 

(Vợ giả chết gạt chồng – Kinh Bách dụ)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Con người là tối linh trong vạn vật, có lý trí, có tình cảm, nhưng cũng có người tập nhiễm những tánh xấu, biến thành gian trá tàn nhẫn. Con người vì có sự sai khác giữa gian trá và thiện lương, gặp phải nhân duyên gì bèn hiện ra nghiệp báo đó.

Làm người không thể có quá nhiều dục vọng, bao gồm cả dục vọng tình ái. Cần phải đạm bạc, ít dục, chung thuỷ, mới được chân tâm của người. Nếu không, lường gạt tình cảm của người đồng thời cũng mất đi tình cảm của người. Một người khéo lường gạt người khác, rất khó được người tín nhiệm.

 

Phu nhân nai mẹ

 

Xưa có một vị cao Tăng tu hành chứng đắc thần thông, Ngài thường du phương, đi hành đạo đó đây hoá độ chúng sanh. Một ngày nọ, Ngài đến nhà một vị tài chủ, gặp lúc tài chủ chuẩn bị ăn cơm trưa. Vị tài chủ nhìn thấy Ngài y phục rách nát, mặt mày phong trần, bèn sinh lòng thương xót, nghĩ thầm: “Như các thầy mỗi ngày đi khất thực kiếm ăn không phải dễ, gặp lúc ta chưa ăn cơm, nay đem cơm này cúng dường cho Ngài !” Tài chủ bèn đem toàn bộ cơm trưa của mình để vào trong bát của Ngài, ở trên còn để một đoá hoa sen, biểu thị sự tôn trọng của mình đối với người xuất gia.

Vị Tăng nhìn thấy, trong lòng hoan hỷ, bèn hiện thần thông, biến thân thể trong suốt, phóng ra hào quang, hương thơm ngào ngạt. Bà già giúp việc cho người tài chủ nhìn thấy cảnh này trong lòng vô cùng hoan hỷ nghĩ thầm: “Đây mới đúng là bậc thần nhân! Mong rằng sau này tôi sanh một trăm đứa con trai, có đầy đủ thần thông biến hoá siêu phàm như Ngài”.

Sau khi bà già qua đời, thần thức của bà tụ lại chỗ người Bà la môn thường đi tiểu tiện. Có lần nọ, một con nai mẹ đến đó liếm chỗ tiểu tiện, lập tức bị cảm ứng mà thụ thai. Thời kỳ hoài thai xong thì sanh ra một đứa bé gái. Đứa bé gái này do người Ba La Môn nuôi dưỡng, khi cô mười tuổi đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, mặt mày sáng rỡ, dáng vẻ đoan trang.

Cô gái lúc rảnh thường giúp cha mình làm một số công việc. Hôm đó, cha có công việc ra đi, cô ở nhà vừa xem lửa, vừa giỡn với nai con. Cô chỉ lo chơi giỡn không nghĩ đến việc thêm củi vào lò để cho lửa tắt. Khi người cha trở về phát hiện lửa đã tàn. Họ ở trong rừng, chung quanh không có người. Người Bà la môn giận dữ kêu cô ta đi đến một xóm làng thật xa xin lửa. Cô ta đến xóm làng thì kỳ tích xuất hiện. Sau mỗi bước chân cô đi xuất hiện một đoá hoa sen vô cùng xinh đẹp. Người trong làng chưa bao giờ thấy được cô gái xinh đẹp như thế, lại càng chưa thấy cảnh tượng kỳ lạ như thề, người người đều kinh ngạc. Cô đi đến một ngôi nhà xin lửa, vị chủ nhà nói:

- Nếu cô đi chúng quanh nhà của tôi ba vòng, tôi sẽ cho cô lửa. Tôi rất ưa thích những đoá hoa sen của cô đem đến.

Cô gái nghe theo bèn đi vòng ngôi nhà ba vòng, thật là kỳ diệu biết bao! Ngôi nhà đó lập tức được bao bọc chung quanh bởi những đoá hoa sen rực rỡ màu sắc, hương thơm ngào ngạt. Có người thấy kỳ tích như vậy, lập tức đi báo cáo cho nhà vua hay. Nhà vua từ xưa đến nay chưa nghe đến việc lạ kỳ như vậy, càng chưa bao giờ nhìn thấy việc này, Ngài cảm thấy việc này thực là không thể nghĩ bàn. Nhà vua lập tức sai một người xem tướng đi theo người báo cáo trở về làng xem tướng cô gái tốt hay xấu, có phước hay không có phước. Người xem tướng vừa nhìn thấy cô gái, lập tức bị cô ta thu hút, liền trở về báo cáo:

- Tâu bệ hạ, thật là một việc lạ lùng ! tôi xem tướng đã bao nhiêu năm, biết bao nhiêu là người nhưng chưa bao giờ nhìn thấy cô gái nào có phước như cô này. Cô nhất định có thần lực. Con cháu của cô nhất định làm nên công nghiệp vĩ đại, đời đời tương truyền không dứt.

Nhà vua nghe rồi trong lòng vô cùng hoan hỷ, lập tức sai người chuẩn bị sính lễ, cưới cô gái làm vợ. Khi cô gái được đem về hoàng cung, sắc đẹp mỹ lệ của nàng làm cho chấn động cả vương phi, cung nữ trong hậu cung. Sau khi kinh ngạc tán thán, họ lại sinh lòng đố kỵ với nàng, cứ tìm khuyết điểm của nàng để làm cho nàng mất mặt. Nhưng do vì nhà vua quá sùng ái nàng, nên họ chưa tìm ra cơ hội. Mười tháng mang thai, cô gái sinh ra một trăm cái trứng, thật là một việc quái lạ. Nguồn gốc của cô gái này đã không ai rõ, cho nên đã có rất nhiều truyền thuyết ly kỳ, nay cô lại sanh ra một trăm cái trứng, khiến cho những cung phi vui mừng, mượn cơ hội này để nhổ cái gai trong mắt. Họ bèn khắc hình tượng yêu ma quỷ quái trên cây chuối, lại bôi thêm máu dơ đưa cho nhà vua và tâu với nhà vua rằng cô sanh ra yêu quái.

Nhà vua tin là thật. Đám cung phi bèn tìm một cái hũ lớn đem trăm cái trứng bỏ vào trong hũ, bịt kín miệng lại rồi quăng cái hũ vào trong dòng sông. Vua trời Đế Thích biết được, bèn ra lệnh thiên thần đóng dấu ấn của Đế Thích trên cái hũ và hộ tống cái hũ trôi theo dòng nước, đến một quốc gia mỹ lệ, giàu có, cái hũ dừng lại.

Vua của nước này ở trên lầu cao nhìn thấy cái hũ nhấp nhô trên dòng nước, trong hũ lại có ánh sáng lấp lánh, bèn sai người vớt cái hũ lên, Vua nhìn thấy ở trên có dấu ấn của vua trời Đế Thích, bèn mở ra xem, bên trong toàn là trứng, vỏ trứng thì nhẵn nhụi, trơn bóng, khiến người ưa thích. Nhà vua không biết trong trứng có gì, lại không dám tuỳ tiện đập bể, bèn tìm một trăm phụ nữ, mỗi người bỏ trứng vào lòng sưởi ấm. Qua một tháng từ trong một trăm cái trứng, sanh ra một trăm đứa con trai. Họ vừa sanh ra đã có trí huệ và sự dũng cảm lạ thường, tướng mạo anh tuấn, tiếng nói vang như sư tử rống, võ nghệ cao cường. Nhà vua vô cùng vui mừng, sai người tìm cho họ một trăm con voi trắng và làm yên đều bằng bảy loại châu báu. Trăm người này anh dũng thiện chiến, bách chiến bách thắng, không có địch thủ, các nước láng giềng lần lượt đều bị họ chinh phục. Cuối cùng họ đem quân đánh nước mà họ được sanh ra ở đó. Ở đất nước của họ đã sớm nghe nói có trăm vị dũng sĩ, anh dũng lạ thường, và việc của họ chinh phục các nước láng giềng làm cho nước này kinh sợ. Tin tức của họ muốn đến đánh nước này làm cho mọi người kinh hoàng. Nhà vua hỏi văn võ bá quan:

- Quân địch sắp đến, ai có thể ra trận chống lại kẻ địch.

Không ai dám trả lời.

Hoàng hậu nghe được tin này nghĩ thầm:

- Trăm vị dũng sĩ này chắc là trăm đứa con thất lạc của ta.

Nàng liền đến gặp nhà vua nói rằng

- Nếu Ngài tin tưởng thần thiếp thì không phải lo lắng kẻ địch tấn công vào. Đến lúc đó, xem kẻ địch tấn công thành trì của ta từ chỗ nào thì đến đó dựng đài quan sát, thần thiếp sẽ vì vua đến trước kẻ địch mà hàng phục nó.

Mọi người nghe rồi nửa tin nửa ngờ, không biết hoàng hậu dùng diệu kế gì đánh bại kẻ địch. Không bao lâu, đoàn quân kia đã đến, dẫn đầu là 100 dũng sĩ, người người đều ngồi trên voi trắng, uy phong lẫm liệt. Quốc vương và hoàng hậu đứng trên thành đối diện với quân đội của kẻ địch. Hoàng hậu mở bầu sữa, đôi nhũ của bà lập tức phóng ra trăm tia sữa bắn vào trong miệng của trăm đứa con. Những đứa con lập tức hiểu ra họ kêu lên:

- Đây chính là mẹ của chúng ta!

Lập tức buông bỏ vũ khí, chạy đến trước mặt mẹ cuối đầu đảnh lễ xin tha tội. Mọi người gặp nhau, vừa buồn, vừa vui. Hai quốc gia đối địch từ đó trở thành hoàn thuận, kết tình anh em thân mật vô cùng.

 

(Bổn sanh Quốc vương – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Mẹ gieo trồng nhân tốt, con cũng được quả báo tốt. Tình cảm của mẹ con bất luận như thế nào cũng không thể phân cách. Đây là tình cảm quý nhất của nhân loại, là nguồn gốc của mọi điều thiện.

 

Nhà hạ độc

 

Ngày xưa có một gia đình giàu có chuyên sống bằng nghề hạ độc. Sau mỗi lần hạ độc, họ được tiền rất nhiều, còn hậu quả hạ độc như thế nào thì không màng đến. Người trong nước đều ghét gia đình này, không dám giao thiệp với họ, cũng chẳng muốn làm việc chung với họ vì sợ bị bỏ thuốc độc chết.

Nhà hạ có một đứa con trai, đã đến tuổi trung niên nhưng chưa lấy vợ. Đó cũng vì giàu có nhưng tên tuổi quá xấu, không nhà nào muốn kết thông gia, càng không muốn đem con gái giả cho nhà này. Mọi người dặn dò lẫn nhau:

- Cái nhà đó ưa thích hạ độc, cứ muốn hại mạng sống người khác, là gia đình mà thế gian ghét nhất. Giả như kết thông gia, khi không có chỗ họ có lẽ sẽ hạ độc bà con thân thích của mình. Không nên gần gũi với hạng người như vậy, phải cách xa họ như tránh xa trộm cướp.

Có người còn nói: «Gia đình này còn xấu ác hơn giặc cướp nữa. Trộm cướp đánh nhau, chân đánh, tay đá, còn có người mạnh kẻ yếu, không nhất định ai nấy đều chết. Còn nhà này im hơi lặng tiếng hạ độc, bạn không thể đề phòng được, cả gia đình sẽ bị độc chết.» Vì thế mọi người thấy gia đình này như thấy ôn dịch, chạy trốn còn không kịp, ai thèm kết thân?

Vì không người nào muốn đem con gái gả cho con mình, thật không còn cách nào khác, nên đành đến chỗ xa ngàn dặm, đi đến nước khác tìm vợ cho con. Sau đó cuối cùng tìm được một gia đình nọ. Nhà này rất nghèo khổ, đẳng cấp thấp kém, nhìn thấy gia đình hạ độc giàu có, lại không biết rõ nguồn gốc của họ, thêm vào đó lễ cưới phong phú, liền nhận lời gả con. Đứa con trai của nhà hạ độc kiếm được vợ vô cùng mừng rỡ, không bao lâu long trọng cưới vợ về nhà.

Người vợ về nhà cha mẹ chồng, giữ gìn lễ giáo, hiếu kính cha mẹ chồng, thái độ đoan trang, ra vào đều giữ quy củ của nàng dâu, của người vợ hiền, mà còn siêng năng lao động, dệt vải, nấu cơm, việc việc đều làm rất chu đáo; cùng chồng thì tương thân tương ái, thật là một nàng dâu tốt. Gia đình hạ độc này, sau khi cưới được nàng dâu, việc hạ độc cũng có phần thúc liễm, nhưng vì để cưới vợ cho con đã dùng rất nhiều tiền của, vì thế họ quay lại nghề cũ, hạ độc kiếm tiền.

Một ngày nọ, mẹ chồng gọi nàng dâu lại, truyền cho phương pháp hạ độc, bảo nàng phải đi đến nhà nọ hạ độc, mẹ chồng nói:

- Con dâu à ! Không dấu gì con, nghề nghiệp của nhà mình là hạ độc, nhà ta sống bằng nghề này, con đương nhiên cũng phải làm như vậy

Con dâu nghe rồi giật mình, sầu khổ thưa với mẹ chồng:

- Thưa mẹ, gia đình của con nhiều đời đều là làm nghề ruộng nương, từ xưa đến nay đều an phận với nghề nghiệp, chưa từng hại ai. Việc hạ độc hại người, con không làm, dù chết con cũng không làm.

Vừa nói nước mắt chảy xuống như mưa, dù cho mẹ chồng khuyên nhủ, uy hiếp, chửi mắng như thế nào, nàng dâu cũng không nghe lời. Mẹ chồng hết cách bèn cầu nguyện với độc thần:

- Nay gia đình con vừa mới cưới đứa con dâu, nhưng nó lại không chịu hạ độc, làm sao bây giờ?

Độc thần trả lời:

- Ta sẽ biến hoá đi trừng trị nó, khiến nó không dám cải lời bà.

Vì thế độc thần bèn đến nhà hạ độc, biến làm rắn độc tìm nàng dâu. Rắn độc chỗ nào cũng có, có khi còn ở trên đầu, khiến nàng cuống cuống sợ hãi. Khi ăn cơm thì rắn xuất hiện trước mặt của nàng khiến nàng buồn nôn, lúc uống nước xuất hiện trong ly làm nàng không dám uống, đi ngủ thì rắn ở trên giường khiến nàng phải chạy ra khỏi mền, trên đường thì rắn độc bò sau lưng. Nàng dâu vô cùng sợ hãi, không biết trốn ở đâu. Nàng đứng ngồi, nằm ngủ đều không an, bị giày vò đến nỗi ốm như cây củi, sức lực yếu ớt. Lúc này độc thần bèn ra lệnh cho nàng dâu:

- Nhà ngươi lập tức đi hạ độc, ta sẽ tha cho.

Nàng dâu đi vào con đường cùng, không biết cách nào cả, chỉ đành tuân mệnh.

Chính vào lúc đó, nàng gặp được người hàng xóm xưa kia đang trên đường buôn bán. Nhìn nàng xanh xao, tiều tuỵ, giật mình hỏi:

- Cô làm sao mà ốm yếu, tiều tuỵ đến nông nổi này?

Náng dâu đem tình cảnh đáng thương kể cho người láng giềng nghe, và nhờ:

- Khi ông trở về nước, xin đến nhà của cha mẹ tôi kể cho họ nghe để họ lập tức nghĩ cách rước tôi trở về, nếu không tôi chắc phải chết ở đây.

Người láng giềng sau khi trở về nước bèn kể cho cha mẹ cô nghe hoàn cảnh con mình như thế. Cha nàng nghe xong, lập tức lên ngựa đi đón con gái. Đến nơi, ông nói với người mẹ chồng rằng:

- Má của nó quá nhớ nhung con gái đêm ngày ăn ngon ngủ không yên, suốt ngày buồn khóc, cho nên nói tôi đến rước con gái về nhà vài ngày, không bao lâu sẽ cho nó trở lại đây.

Mẹ chồng nghe rồi đồng ý cho dâu trở về cha mẹ ruột. Người cha sau khi đem con gái trở về liền cho người sang bảo với nhà thông gia rằng:

- Các ngươi làm nghề hạ độc, tôi đem con gái về nhà, không cho trở lại nhà các ngươi nữa. Nếu các ngươi dám đến chỗ tôi gây chuyện, chúng tôi sẽ đi cáo quan. Các ngươi hại người, mai kia bại lộ sẽ bị tai hoạ, chết tuyệt cả nhà, nhưng nếu bỏ nghề độc ác kia, tôi có thể suy nghĩ cho con gái trở lại làm dâu.

Nhà hạ độc cùng nhau bàn thảo nói:

- Đứa con dâu xinh đẹp, đoan chính, trên đời ít có, thà bỏ đi nghề hạ độc, chứ không thể bỏ nàng dâu. Lại nữa, nếu bên nhà gái thật đem chuyện này báo quan, quan phủ sẽ trừng trị gia đình chúng ta.

Vì thế nhà hạ độc bỏ đi cái nghề bất chánh này, lập lời thề ước tuyệt không tái phạm. Từ đó họ bỏ độc thần, sống cuộc đời bình an hạnh phúc.

 

(Phật thuyết độc dụ kinh - Sanh Kinh quyển 4)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Mối quan hệ gia đình hoà hợp tốt đẹp mới có thể hoá giải nghề nghiệp tà ác. Chỉ cần có thiện tâm thì nhất định cảm hoá được người thân của mình. Mọi người cần phải nỗ lực trên con đường thiện lành thì cuộc sống càng thêm tốt đẹp.

 

Thái tử Pháp Thí

 

Ngày xưa có vị quốc vương, thống trị đất nước rộng lớn. Nhà vua có một thái tử tên là Pháp Thí. Thái tử Pháp thí tính tình thuần hậu, hiếu thảo, hành vi đoan chính, nghiêm trang. Có lần thái tử Pháp Thí bái kiến nàng cung phi yêu quý của vua cha. Cung phi nhìn thấy thái tử tướng mạo đường đường bèn khởi nên tà niệm, ôm thái tử vào lòng. Thái tử sợ quá dùng sức thoát ra chạy mất.

Nàng cung phi này ôm hận vào lòng, tìm cách vu cáo thái tử động tay động chân với mình. Quốc vương tuy không tin, nhưng mãi nghe những lời sàm tấu thỏ thẻ tỉ tê của mỹ nhân khiến nhà vua phái thái tử đi trấn giữ biên cương. Trước khi lên đường, nhà vua căn dặn thái tử rằng:

- Con đi trấn giữ biên cương, phải đối đãi với dân chúng bằng tấm lòng từ, hành vi cũng cần phải kiểm điểm.

Thái tử khóc lạy nói:

- Con nhất định sẽ ghi chặt lời dạy của phụ vương vào trong tâm, không bao giờ dám quên.

Nói xong từ biệt phụ vương lên đường đến biên cương. Thái tử đến đây trị lý một thời gian, thành phố này trở nên rất trật tự, nề nếp. Tin tức truyền về kinh thành, nhà vua và hoàng hậu rất vui, nhưng nàng cung phi lại vô cùng oán hận. Nhân dịp nhà vua xuất cung, nàng này cho người đến biên cương giả truyền thánh chỉ:

 - Ngươi có tội khi quân, lập tức móc cặp mắt giao cho sứ giả đem về kinh đô.

Quan viên thuộc hạ đều không dám làm việc tàn nhẫn như vậy, thái tử chỉ đành tự mình móc mắt giao cho sứ giả đem về.

Thái tử móc mắt rồi không có cách nào xử lý việc chính sự, lang thang khắp nơi, lần lượt qua các nước, đánh đàn kiếm sống qua ngày. Thái tử có người vợ chưa cưới là công chúa của một nước. Trên đường đánh đàn xin ăn, hoàng tử lang thang, lưu lạc đến nước này. Vị vua ở đây rất thích đàn cầm, vì thế có người dẫn thái tử vào hoàng cung đàn cho vua nghe. Công chúa đang cùng với phụ vương nghe đàn, nàng rất thông minh, lại khéo hiểu âm luật, biết được tâm tư buồn thương của thái tử gởi vào trong tiếng đàn, nhận ra người đánh đàn mù kia chính là thái tử Pháp Thí, người chồng chưa cưới của mình, bèn thương khóc nước mắt như mưa, nói:

- Phu quân của tôi, sao lại rơi vào hoàn cảnh này!

Công chúa nói với cha:

- Số mạng của con đã liên kết với chồng con, gái trinh không lấy hai chồng. Chàng nay gặp cảnh hàm oan lưu lạc đến đây, cần con quan tâm chăm sóc. Mong phụ vương cho phép con theo chồng mình.

Quốc vương và hoàng hậu đều rất thương tâm, nhưng thấy con gái quyết tâm như thế, còn biết chiều theo ý nàng.

Vợ chồng thái tử Pháp Thí lần hồi trở về quê cũ. Phụ vương của Pháp Thí nghe nói có một người đánh đàn rất giỏi vào trong thành bèn cho người đưa vào hoàng cung. Tuy gương mặt của thái tử vô cùng tiều tuỵ, nhưng càng nhìn càng thấy giống Pháp Thí. Vợ của Pháp Thí đem việc Pháp Thí tuân theo chiếu chỉ móc mắt như thế nào kể cho vua cha nghe.

Nhà vua lập tức ra lệnh điều tra, thì ra, việc này là do cung phi làm, lập tức ra lệnh bắt đánh một trận rồi đem đi chôn sống. Từ đó thái tử Pháp Thí và công chúa sống cuộc đời bình an đến tóc bạc răng long tại đất nước của cha mình.

 

(Bổn sanh thái tử Pháp Thí – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Thân tình là một yếu tố quan trọng để duy trì sự sống của nhân loại. Vợ chồng ân ái, con cháu hiếu thuận, gia đình hoà hợp là sự hưởng thụ tốt đẹp nhất của cuộc sống con người. Nhưng núi cao kia còn có lúc bị mây mù bao phủ, che đậy, thân tình cũng có lúc vì lý do nào đó gặp phải ngăn cách nhưng “mây mù không che được núi xanh”, chỉ cần cả gia đình cùng nhau hiệp lực, thì không có ai có thể cách ly mối thâm tình này.

 

Chương bảy
Tri ân trọng nghĩa

 

Tận trung làm tròn phận sự

 

Tại nước Sa Kiệt có rất nhiều chim đến đây tập hợp. Vua chim An Trụ thống lĩnh cả đàn, một ngày nọ hoàng hậu chim vì mang thai không muốn ăn bèn nói với vua rằng:

- Thân em đang mang dòng máu của chúng ta nhưng em không muốn ăn gì cả, sức khoẻ càng ngày càng yếu ốm suy nhược. Em nghĩ chỉ có ăn thịt nai chúa mới có thể sống, nếu không chắc em chết mất.

Vua chim nghe lời vội chiêu tập đàn chim nói rằng:

- Vua nước Sa Kiệt có vua nai lớn tên là Thuận Cụ, ta muốn được thịt của nai chúa cho hoàng hậu ăn. Trong các ngươi ai có thể đảm nhận trọng trách này.

Có bốn con chim bước ra nói:

- Chúng tôi lãnh mệnh, không tiếc sanh mệnh để hoàn thành công tác này.

Bốn con chim tức thì bay đến nước Sa Kiệt. Vương tử nước Sa Kiệt nhìn thấy bốn con chim sợ chạy đi bẩm báo với phụ vương:

- Con thấy có bốn con chim, khí thế hùng mãnh, sát khí đằng đằng, đang bay về phía vườn nai. Xin phụ vương phái người bắt chúng nó, đề phòng chúng nó làm việc ác, hại nai chúa.

Nhà vua bèn ra lệnh giăng lưới bắt chim, bắt được lập tức đem bốn con chim về hoàng cung.

Nhà vua nhìn thấy bốn con chim bèn trách rằng:

- Các ngươi tại sao xâm phạm lãnh giới của nước ta, lại có ý đổ mưu hại nai chúa?

Chim trả lời:

- Đây là mệnh lệnh của vua chim, không phải ý nguyện của chúng tôi. Vì hoàng hậu chim mang thai, muốn ăn thịt nai chúa để bồi bổ thân thể yếu đuối, vua chim sai chúng tôi đến đây. Chúng tôi nghe theo lệnh của vua nên bất chấp nguy hiểm đến tính mạng để báo ân vua.

Nhà vua nghe rồi cảm thấy lạ lùng nghĩ rằng: “Những con chim này vâng theo lệnh vua chim, làm những việc nguy hiểm như vậy, thà hy sinh thân mình chứ không trái lời. Nếu không có lòng thành làm sao được như vậy. Còn người thế gian được quân vương, cha mẹ hướng dẫn, dạy dỗ còn chưa trung thành như vậy.

Nhà vua cảm động với sự trung thành của bốn con chim bèn ra lệnh tha cho nó.

 

(Phật thuyết Câu Tát La quốc ô vương kinh )

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Bốn con chim dùng sanh mạng của mình để chấp hành sứ mệnh, sự trung nghĩa của nó không thua loài người. Ở chức vị nào, làm việc gì, đều nên có thái độ thành khẩn làm việc, đó là điều mà chúng ta hiện nay cần nên học tập.

 

Nhạn chúa báo ân

 

Ngày xửa ngày xưa, ở thành Ba La Nại. Gần thành có một cái ao, trong có rất nhiều cá, rùa, lại cả một đàn nhạn sinh sống. Trị Quốc là nhạn chúa, thống lĩnh năm trăm con sống cuộc đời nhàn nhã, không phiền lo. Nhưng vào một ngày, có người thợ săn đặt lưới ở bên hồ dùng cành cây che giấu, họ muốn bắt con chim đầu đàn của bầy nhạn. Nhạn chúa khi đi kiếm ăn, không mảy may cảnh giác, chẳng may rơi vào trong lưới. Trị Quốc vốn muốn thét kêu cứu mạng. Nhưng nó phát hiện lưới rất chắc chắn, đàn chim không thể nào đối phó được. Nó muốn thông báo cho đàn nhạn nên tránh xa chỗ nguy hiểm này. Ngẩng đầu nhìn thấy bầy nhạn đang kiếm ăn, nghĩ bụng để chúng ăn no rồi báo cho chúng biết. Nhạn chúa nhìn đàn chim sắp no căng diều mới hét lớn rằng:

- Có người thợ săn muốn bắt chúng ta, ta đã rơi vào trong lưới, các ngươi hãy nhanh chân rời khỏi chốn này đi

Đàn nhạn nghe tiếng kêu la hỗn loạn bay đi, chỉ còn lại một mình nhạn Tô Ma. Tô Ma vừa có tâm địa thiện lương vừa có tinh thần trách nhiệm. Nó không nỡ để cho nhạn chúa bị bắt. Chim nhạn biết giờ chết của mình sắp đến, không khỏi lo lắng cho đàn nhạn. Nó giao cho nhạn Tô Ma làm vua bầy nhạn, đem bầy nhạn đến nơi an toàn không có người thợ săn.

Nghe lời nhạn chúa, nhạn Tô Ma rất buồn, bèn trả lời rằng:

- Tôi sẽ không đi đâu, Ngài là thủ lĩnh của chúng tôi, bình thường đối với tôi rất tốt, tôi dù có cùng chết cũng không bỏ Ngài trong lúc nguy hiểm mà đi.

Tô Ma nói xong bèn tìm cách cứu nhạn chúa, đúng như sự nhận xét của nhạn chúa cái lưới quá chắc chắn, Tô Ma không có cách nào cứu được.

Vào lúc đó người thợ săn đi đến. Tô Ma không quản đến sự nguy hiểm bị người thợ săn bắt, đến trước người thợ săn nói rằng:

- Nếu nhất định phải ăn một con chim nhạn thì ông ăn thịt tôi đi, thịt của tôi tươi ngon hơn thịt nhạn chúa. Xin Ngài hãy tha cho nhạn chúa, tôi nguyện chết thế cho người.

Thái độ xả thân cứu mạng của Tô Ma đã làm người thợ săn cảm động, bèn tha cho nhạn chúa cũng không để Tô Ma thay chết. Nhạn chúa được thả ra, nói nhỏ với Tô Ma rằng:

- Đây là người thợ săn từ bi, chúng ta nên tìm cách báo đáp.

Hai con nhạn muốn tìm cách báo đáp, ngần ngừ không đi, lấy làm lạ người thợ săn cười nói:

- Các ngươi chỉ là loài chim, còn ta là người, các ngươi làm sao báo đáp cho ta được?

Nhạn chúa mời người thợ săn đi với mình gặp vua Ba La Nại, Trị Quốc và nhà vua có giao tình với nhau, nó sẽ nhờ nhà vua báo ân giúp.

Quả nhiên khi đến hoàng cung, nhà vua nghe xong câu chuyện, lập tức thưởng cho người thợ săn rất nhiều vàng ngọc. Người thợ săn thấy được sự quan trọng của lòng từ bi, bèn đem những vàng ngọc này bố thí cho những người nghèo khổ, từ đó về sau không còn làm nghề săn bắn nữa

 

(Nhạn chúa cầu vua trả ân cho người thợ săn - Thập tụng luật)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Nhạn chúa và Tô Ma dùng tinh thần từ bi và tấm lòng tri ân báo ân cảm hoá người thợ săn, khiến người này khởi lên thiện tâm, chẳng những đem vàng ngọc bố thí cho người nghèo khổ mà không còn làm nghề săn bắn nữa. Bình nhật nếu chúng ta cũng có thể dùng tâm từ bi và tấm lòng biết ân báo ân đối xử với mọi người xung quanh thì cuộc sống nhất định rất an vui, đồng thời cũng có thể làm sống dậy bản tánh lương thiện của người, khiến xã hội càng thêm an lạc, càng thêm thái bình.

 

Hành thiện gặp oan

 

Có một người rất giàu có, chứa của muôn ức, tâm địa rất nhân từ, lương thiện.

Ngày nọ, ông đi chợ, nhìn thấy người ta đang bán một con ba ba bị thương, đem lòng thương xót, nghĩ rằng nó sẽ bị người ta mua về ăn thịt, tâm không nỡ bèn đến hỏi thăm:

- Ông bán con ba ba này bao nhiêu tiền?

Người kia biết ông nhiều tiền lại rất từ bi, vì để tu nhân tích đức nên thường hay phóng sanh, đắt rẻ không thành vấn đề đương nhiên sẽ không bỏ đi cơ hội kiếm tiền này, liền nói:

- Một triệu đồng, nếu ông muốn mua thì bỏ tiền ra, thiếu một đồng cũng không bán. Nếu ông không muốn mua thì tôi sẽ đem về làm bữa tối.

Người giàu nghe rồi lập tức đưa một triệu đồng đem con ba ba về nhà, ông nhẹ nhàng bỏ nó vào nước trong, cẩn thận rửa ráy sạch sẽ rồi tìm một ít thuốc đắp lên miệng vết thương, sau đó thả vào một con sông gần đó, nhìn nó từ từ bơi đi.

Nửa đêm ông nghe ngoài cửa có tiếng động nhẹ, bèn mở cửa ra nhìn, thì ra là con ba ba ban ngày ông đã phóng sanh đang cắn cửa nhà mình.

Ba ba nhìn thấy ông cất tiếng:

- Ân nhân, nếu hôm nay không gặp Ngài, tôi đã chết rồi ! Tôi đã nhận chịu ân huệ lớn lao nhưng tôi chỉ là một con vật bình thường trong nước, không có gì đền đáp ân sâu cho Ngài, thật là xấu hổ. Tôi thường sống trong nước, nên ít nhiều cũng biết được sự thay đổi của sông hồ. Nay thưa với Ngài, lụt lớn sắp đến, xin Ngài chuẩn bị thuyền bè, đồ đạc, nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng.

Người nhà giàu nghe xong, cảm ơn con ba ba. Sáng sớm hôm sau, ông đi đến hoàng cung thưa với nhà vua chuyện này. Từ trước đến nay ông nổi tiếng làm việc thiện, nên nhà vua tin lời ông nói chuẩn bị mọi việc.

Không bao lâu, ba ba lại đến nói với người giàu rằng:

- Nhanh lên thuyền, hồng thuỷ sắp đến. Ngài mau lên thuyền đi theo tôi, tôi sẽ đưa Ngài đến nơi an toàn.

Ông nhà giàu lập tức nhảy lên thuyền, đi theo sự hướng dẫn của ba ba. Quả nhiên không lâu, từ xa có một dòng nước cao như bức tường ào ạt cuốn đến. Người nhà giàu ngồi trong thuyền bỗng phát hiện trong dòng nước có một con rắn đang bì bõm theo sau bèn cứu nó lên. Không bao lâu lại thấy một con chồn chìm nổi trên nước lại tìm cách cứu con chồn. Ba ba nhìn thấy việc làm thiện lành của ông vô cùng cảm động.

Không lâu sao, ông lại thấy có một người đang trôi theo dòng nước, đang kêu gào:

- Cứu tôi với ! Cứu tôi với!

Người nhà giàu thấy vậy bèn nói:

- Nhanh nhanh cứu người này đi !

Nhưng mà lần này, ba ba lại cương quyết nói:

- Không nên cứu. Phần đông tâm của người đều là gian xảo, dối trá, không giữ chữ tín, thường thường là xu nịnh theo quyền thế, vong ân, phụ nghĩa, ưa làm điều ngang ngược. Người này cũng như vậy, chúng ta không nên cứu.

Người giàu nói:

- Ngươi nói đương nhiên có lý, nhưng mà các loài thú ta đều cứu, nay nhìn thấy người sắp chết lại không cứu thì không còn nhân nghĩa nữa. Ta thật không nhẫn tâm như vậy.

Ông lão mất rất nhiều sức lực cuối cùng cũng cứu người kia lên.

Ba ba thấy lời khuyên của mình vô hiệu, than thở rằng:

- Người thiện tâm ơi, có ngày người sẽ hối hận.

Chiếc thuyền được ba ba dẫn đường, đã chiến thắng được hồng thuỷ, đến nới an toàn. Ba ba từ giã người nhà giàu, rắn và chồn cũng từ giã ra đi. Chồn tìm được một hang động trú ở đó. Một ngày nọ, nó phát hiện trong hang động có chôn dấu một trăm cân vàng ròng, vô cùng vui mừng nghĩ rằng: “ Ta có thể dùng nó để đền ân” vội vàng ra khỏi động đi tìm người nhà giàu:

- Ân huệ Ngài cứu sống sanh mạng , tôi không bao giờ quên. Ngài cũng biết tôi là loài động vật sống trong hang động. Tôi vừa tìm được một hang động để ở thì phát hiện trong đó có 100 cân vàng. Động này không phải là mồ, cũng không phải là chỗ ở, tôi không có trộm cũng không cướp. Tự nhiên được nhiều vàng như thế nguyện đem dâng Ngài để bày tỏ lòng biết ân của tôi.

Người giàu nghĩ thầm: “Nếu ta không lấy mà để trong lòng đất thì quá uổng phí, chi bằng đem về cứu tế người nghèo khổ”, vì thế ông bèn đi theo chồn đến hang động lấy vàng. Người được cứu, nhìn thấy đống vàng sanh lòng tham nói:

- Chia cho tôi một nửa.

Người nhà giàu chia cho anh ta mười cân. Người này chê ít, nói:

- Ông không chia cho tôi một nửa phải không? Tôi sẽ đi báo quan ông trộm vàng trong mộ, ông sẽ bị trị tội.

Người nhà giàu nói:

- Ngươi nói sai rồi! Nay lũ lụt vừa lui, những người nghèo khổ đang chờ đợi cứu tế, ta phân phát cho họ, chứ không thể chia cho ngươi nhiều như vậy.

Nhìn thấy thái độ kiên quyết, biết rằng người nhà giàu sẽ không làm theo lời mình, y nghĩ thầm: “Được rồi, ngươi không chia vàng cho ta, thì đừng mong sống yên ổn”. Y thật đi cáo quan, quan phủ tin theo lời, bắt người giàu giam trong ngục.

Chồn và rắn nghe tin này vô cùng lo lắng, chúng bàn với nhau : “Phải nghĩ cách cứu ân nhân mới được”. Rắn nghĩ tới nghĩ lui bỗng nghĩ ra một kế, nói : “Ta có cách cứu ân nhân rồi”. Nói xong nó lập tức vào trong rừng kiếm một loài thuốc rất đặc biệt, rồi ngậm thuốc này bò vào trong ngục, nhìn ân nhân mặt mày tiều tuỵ, bị giam trong ngục, lòng rắn vô cùng xót xa, nó nói nhỏ:

- Xin Ngài đừng lo lắng, tôi đến cứu Ngài đây, loại thuốc này xin Ngài giữ kỹ bên mình, tôi lập tức vào trong hoàng cung cắn thái tử. Độc của tôi rất mạnh, trên đời chỉ có loại thuốc này mới có thể trị được, ngoài ra không có cách nào có thể cứu mạng. Thái tử một khi bị rắn độc cắn, nhà vua nhất định sẽ trưng cầu lương y, lương dược, Ngài có thể mượn cơ hội trị bệnh lập tức được ra khỏi nơi này.

Rắn lén bò vào hoàng cung cắn thái tử. Mạng sống của thái tử như ngàn cân treo trên đầu sợi chỉ, quốc vương vô cùng lo lắng, Ngự y trong cung đã dùng mọi cách cũng không cứu được. Quốc vương phái người đi khắp nơi phát bố mệnh lệnh.

- Bất luận là ai, chỉ cần có thể cứu sống thái tử, ta sẽ phong cho người đó làm tướng quốc, cùng nhau trị lý việc nước.

Mệnh lệnh vừa truyền vào trong ngục, người nhà giàu xin vào hoàng cung trị bệnh cho thái tử, ông dùng thuốc mà rắn tặng để trị . Quả nhiên, thuốc đến bệnh trừ, thái tử lập tức chuyển nguy thành an. Quốc vương giữ lời hứa, phong cho người nhà giàu làm tướng quốc, người nhà giàu dùng lời khéo léo từ chối, chỉ xin nhà vua cho phép mình đem số vàng đó phân phát cho những người nghèo khổ sau thiên tai, lũ lụt. Nhà vua vô cùng kính phục, bèn đáp ứng lời yêu cầu, đem số vàng phát cho người nghèo.

 

(Bổn sanh Lí gia – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Tuy nói làm thiện thì có thiện báo, nhưng không phân biệt được kẻ trung, người gian có lúc cũng đem lại tai ách cho mình giống như người nhà giàu vậy. Trong câu chuyện những loài vật biết ân tìm cách cứu ân nhân của mình được bình an thoát khỏi nguy hiểm. Trong cuộc sống hiện thực, không phải mỗi người đều có thể giống người nhà giàu gặp được may mắn như thế. Vì thế, xin khuyên người đời thường phải có tâm làm điều thiện, đồng thời trí huệ phải đi đôi với lòng từ bi.

 

Người nghèo

 

Xưa có người nghèo nhưng chí hướng cao cả, thanh khiết, không bao giờ làm việc phi pháp, phi lễ. Vì gia đình quá nghèo không cách nào kiếm sống, bèn đi làm thuê cho một số thương nhân. Những người thương nhân này đem anh nghèo cùng đi biển kiếm vàng ngọc. Sau khi tìm được nhiều vàng ngọc bèn giương buồm trở về nước. Nhưng đi được nửa đường, thuyền không biết vì sao ngừng lại, bất luận chèo chống như thế nào cũng không thể tiến thêm được nửa bước. Tất cả những người thương buôn vô cùng hoảng sợ, biết rằng vì kiếm châu báu mà đắc tội, thần biển đến trừng phạt mình, vì thế bèn quỳ xuống cầu nguyện xin thần biển tha chết cho họ. Còn người nghèo thường ngày không làm việc gì trái với lương tâm, nên không có cầu nguyện cùng với họ.

Thuyền sở dĩ không nhúc nhích, là do thần biển làm ra. Thần biển có ý trừng phạt những người thương nhân khinh mạn mình, nhưng người nghèo trên thuyền là người tốt, không nên liên luỵ, thần suy đi nghĩ lại, nghĩ suốt bảy ngày mới tìm ra diệu kế. Thần biển nghĩ: “Ta sẽ thử thách những người thương nhân này. Nếu họ vượt qua được thử thách, ta sẽ tha thứ . Nếu họ không thì ta trừng phạt họ cũng không liên luỵ đến người nghèo đó”. Thuyền ở trên biển ngừng suốt bảy ngày không thể nhúc nhích, đoàn thương thân lo lắng vô cùng. Đêm thứ bảy một người thương nhân nằm mộng thấy thần biển nói rằng:

- Chỉ cần các ngươi dâng người nghèo cho ta, ta sẽ tha cho các ngươi đi.

Người này giật mình tỉnh giấc, kể giấc mộng cho mọi người nghe. Khi mọi người đang bí mật thảo luận sẽ xử trí như thế nào thì người nghèo biết được. Anh ta khẳng khái nói:

- Tốt lắm, hãy đem tôi làm vật hy sinh cho thần biển. Đừng để vì một mình tôi mà liên luỵ đến mọi người,

Đoàn thương nhân nghe người nghèo tự nguyện hy sinh vô cùng vui mừng, như vậy sẽ giảm rất nhiều phiền phức. Họ kết cho anh một chiếc bè gỗ, trên bè để một ít nước và lương thực bỏ đi. Thần biển nhìn thấy như vậy giận dữ nổi lên một trận sóng lớn đánh lật thuyền của đám thương nhân. Mọi người đều bỏ thân vào trong miệng cá. Thần biển làm cơn gió thuận đưa bè của người nghèo vào trong bờ. Người nghèo an toàn trở về quê hương, đoàn tụ với vợ con của mình.

 

(Bổn sanh người buôn nghèo – Lục độ tập kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Bất luận là người giàu kẻ nghèo, mạng sống của người đều quý báu như nhau. Trong giờ phút sanh tử, không thể hy sinh tính mạng của người khác để bảo tồn tính mạng của mình. Sự trừng phạt của thần linh là nhắm vào những người tham lam, ích kỷ, chỉ biết riêng mình. Những người tham lam ích kỷ, bỏ nghĩa quên ân, cuối cùng sẽ bị trừng phạt, còn những người xả thân, giữ gìn đạo nghĩa, lại do vì tâm thiện của mình mà được cứu sống.

 

Phật độ thầy Tăng bệnh

 

Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vân du đến vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, có 1250 vị Tỳ kheo đi theo Ngài, lúc đó có vị Tỳ kheo bệnh nặng, nằm liệt giường, không y thực và thức ăn, không người chăm sóc, không thể tự mình lo lắng, nước hôi thối chảy khắp toàn thân. Thầy nằm trên giường rên rỉ, chỉ thấy bức tường trống không, không ai quan tâm lo lắng, nhịn không được than rằng:

- Ta chắc chắn sẽ chết, không ai đến đây cứu ta.

An Nan nghe được bèn đến đảnh lễ Đức Phật :

- Kính bạch Đức Thế Tôn đại từ đại bi, có một vị Tỳ kheo đang đau khổ, mong chờ cứu độ, chúng ta nên đến đó thăm.

Đức Phật đến thăm và hỏi:

- Khi thầy bị bệnh có người đến thăm nom và cho thuốc thang gì không ?

Thầy Tỳ kheo trả lời:

- Thân con cô độc không người thăm nom giúp đỡ, cũng không thầy không thuốc, gia đình lại xa, cha mẹ anh em không có ở đây, láng giềng và bạn bèn không có ai quan tâm giúp đỡ.

Đức Phật lại hỏi:

- Khi thầy khoẻ mạnh có đi thăm viếng, quan tâm người bệnh chăng?

Thầy Tỳ kheo trả lời:

- Kính bạch Đức Phật, không có.

Đức Phật bảo:

- Khi thầy khoẻ mạnh không đi thăm viếng chăm sóc người bệnh, nay lại có ai để ý đến thầy. Chúng ta thường nói: Thiện ác, tội phước đều có quả báo tức là ý nghĩa này.

Đức Phật đỡ người bệnh dậy, tắm rửa cho thầy. A Nan giúp đỡ đem nước đến xối gội. Tắm rửa sạch sẽ xong, Đức Phật đỡ người bệnh nằm xuống, và dặn dò ăn uống, dùng thuốc. Được Đức Phật quan tâm săn sóc, thầy Tỳ Kheo khôi phục sức khoẻ rất nhanh.

Trong các phước điền, thăm bệnh là phước điền đệ nhất. Bồ Tát giới quy định: Nếu cha mẹ, sư trưởng bị bệnh cho đến trên đường gặp người bệnh cần phải quan tâm chăm sóc, không được bỏ mà đi.

 

(Phật thuyết Tỳ kheo tật bệnh kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Kẻ tự ti, ích kỷ, vô tình, vô nghĩa với người, dường như rất thông minh để bảo tồn thân mình, nhưng lúc tai nạn lâm bệnh, thì làm sao được sự quan tâm giúp đỡ của người? Không có cho ra thì không được đền đáp, ý nghĩa này đứa con nít cũng hiểu.

 

Nhà vua ban thưởng

 

Ở phía đông có một quốc gia rất lớn, cuộc sống của dân chúng phồn vinh, sung túc. Nhưng điều bất hạnh là nhà vua của nước này lâm trọng bệnh, đã mời tất cả danh y trong nước chữa trị suốt mười hai năm ròng, nhưng vẫn không lành bệnh.

Bệnh của nhà vua cáng ngày càng nặng, các quan đại thần đi khắp nơi tìm thầy thuốc chữa bệnh cho nhà vua. Họ được biết, tại một nước chư hầu nhỏ, có một vị thầy thuốc y thuật rất cao minh, liền đến đó mời người này vào hoàng cung trị bệnh cho nhà vua.

Vị thầy thuốc này đến tẩm cung bắt mạch. Ông ta thưa:

- Bệnh của đại vương không khó trị. Vì cuộc sống của Ngài quá lợi dưỡng, tôn quý, mới bị chứng bệnh nhà giàu này. Ngài không được ăn các đồ dầu mỡ, béo ngậy, phải ăn cơm rau thanh đạm, rồi kẻ hạ thần này sẽ khai toa cho Ngài, bệnh của Ngài sẽ khoẻ.

Nhà vua bệnh đã lâu, đau khổ quá nhiều, mặc dù không tin tưởng lời thầy thuốc, nhưng cũng làm theo. Sau một thời gian, bệnh tình quả nhiên thuyên giảm rất nhiều.

Nhà vua rất hoan hỷ hỏi thầy thuốc:

- Bệnh của ta, trị lành một cách dễ dàng như thế, tại sao trong nước ta biết bao nhiêu là danh y đều không có cách nào trị khỏi?

Thầy thuốc trả lời:

- Những vị thầy thuốc đó, chẳng phải là không trị lành cho đại vương, chỉ có điều là họ không dám nói thật tình như kẻ hạ thần này. Họ biết rõ đại vương thường ăn những thứ sơn hào hải vị, của ngon vật lạ, nên đã dư thừa thức ăn, nhưng không dám để cho đại vương ăn cơm rau đạm bạc, còn lại cho đại vương uống rất nhiều thuốc bổ, bệnh của đại vương đương nhiên không lành, mà càng ngày càng nghiêm trọng.

Nhà vua nghe rồi gật đầu nói:

- Ngươi nói rất có lý. Nhà ngươi quả thật là một thầy thuốc rất cao minh, không những biết trị bệnh, mà còn hiểu đạo lý, khiến cho ta được lợi ích rất lớn!

Thầy thuốc tiếp tục ở trong hoàng cung trị bệnh cho nhà vua. Sức khoẻ nhà vua hồi phục rất nhanh, không bao lâu đã có thể lâm triều xử lý việc nước.

Vị thầy thuốc nhiều lần muốn thưa với nhà vua hoàn cảnh khó khăn nghèo khốn của gia đình mình, nhưng thật khó mở miệng. Ông ta hy vọng quốc vương ban thưởng vì dù sao đi nữa mình cũng là người trị lành căn bệnh đã hành hạ nhà vua bao lâu nay.

Sức khoẻ đã bình phục, thầy thuốc bèn cáo từ, chuẩn bị trở về nước của mình. Quốc vương cười nói:

- Cảm ơn ngươi đã trị lành bệnh cho ta, ngươi đã muốn trở về, ta cũng không ép ở lại, xe ngựa ta cho ngươi đang ở ngoài hoàng cung, có thể đưa ngươi trở về nhà.

Vị thầy thuốc mừng rỡ, cảm tạ nhà vua và rời khỏi hoàng cung. Nhìn thấy chiếc xe, ông ngẩn người ra : “Là xe ngựa gì vậy! Một con ngựa già, gầy ốm trơ xương, một cổ xe ngựa vừa cũ, vừa hư”. Thầy thuốc hơi có chút giận dữ, nghĩ thầm: “Đường đường là đại vương của một nước lớn, không ngờ lại ban thưởng như vậy”. Ông than thở rồi leo lên xe trở về đất nước của mình.

Vừa đến biên giới, thấy có người đang chăn một bầy voi lớn, khi ông đến đây, thì không nhìn thấy đàn voi này, bèn ngừng xe hỏi :

- Đàn voi này của ai vậy?

Người này ngạc nhiên nhìn ông ta, trả lời:

- Chẳng lẽ ông không biết sao? Đàn voi này là của vị thầy thuốc đã trị lành bệnh cho nhà vua nước láng giềng! Toàn quốc đều biết mà.

Vị thầy thuốc không còn tin vào tai mình nữa, lại hỏi:

- Gia đình của vị thầy thuốc đó rất nghèo, làm sao mà nuôi được nhiều voi như vậy, những con voi này ở đâu mà có?

Người này nói:

- Vị thầy thuốc đó chữa lành bệnh cho nhà vua, nên nhà vua ban thưởng cho.

Vị thầy thuốc trách mình: Xem kìa, nhà vua đâu có giống như mình nghĩ, chỉ là Ngài ban thưởng cho mình mà mình không biết đó thôi. Có nhiều voi như vậy ta sẽ bán nó đi, sẽ được giàu có.

Vừa đi vừa nghĩ, được một quãng, vị thầy thuốc lại thấy trên cánh đồng cỏ bên đường có một đàn ngựa. Vị thầy thuốc bèn hỏi người chăn ngựa:

- Đàn ngựa nhiều như thế của ai vậy?

- Đây là nhà vua nước láng giềng ban thưởng cho người thầy thuốc cao minh.

Vị thầy thuốc nghĩ: “Thì ra nhà vua không những cho ta một đàn voi, mà còn cho ta cả một đàn ngựa”

Ông tiếp tục lên đường, đi không bao xa lại nhìn thấy một người đang chăn dê, sau khi hỏi thăm, cũng biết là bầy dê này do nhà vua ban thưởng để cám ơn mình.

Người thầy thuốc vui mừng không kể xiết. Ông muốn bay ngay lập tức về nhà kể cho người vợ bao nhiêu năm chung sống trong cảnh nghèo nàn, vất vả với mình. Khi xe về đến nhà, ông tìm mãi cũng không ra căn nhà nhỏ nghèo nàn của mình đâu. Trước mặt ông ta là lâu đài điện ngọc huy hoàng rực rỡ như bồng lai tiên cảnh. Vị thầy thuốc hỏi người gác cửa :

- Nhà của vị thầy thuốc xưa ở đây đã dọn đi đâu rồi.

- Đây chính là nhà ông ấy, ông có việc gì không?

- Tôi chính là vị thầy thuốc ấy đây.

Người gác cổng lập tức mở cửa, cung kính mời vào. Vừa bước vào nhà, nhà cửa trang hoàng lộng lẫy, ông nhìn không chớp mắt. Đang ngắm nhìn căn phòng nguy nga, tráng lệ thì có một vị phu nhân cao quý mỹ lệ bước ra, ông vội vàng cúi đầu, tay chân lúng túng nghĩ thầm không biết vị phu nhân đẹp như tiên này tại sao lại ở trong nhà của mình.

Ai hay phu nhân đi thẳng đến bên cạnh thầy thuốc thân mật gọi tên, ân cần săn sóc:

- Ông sao bây giờ mới trở về? Đường sá xa xôi, cực khổ, mau vào phòng nghỉ ngơi.

Nghe tiếng quen thuộc, ngẩng đầu lên nhìn, kinh ngạc vui mừng nói:

-A ! Thì ra là vợ thân yêu của ta, tôi thực không nhận ra bà nữa.

Vợ người thầy thuốc nói:

- Tất cả nhà cao cửa rộng, y phục xinh đẹp đều do quốc vương ban thưởng.

Người thầy thuốc nói:

- Lại còn rất nhiều voi, ngựa, dê quốc … Vương ban thưởng cho chúng ta quá nhiều mà tôi bất quá chỉ trị lành bệnh cho người thật là quá ít.

 

(Phật thuyết tạp ví dụ kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Trách nhiệm của thầy thuốc là cứu giúp người bệnh hoạn thương tật, nhưng mà dám nói lời thẳng như vị thầy thuốc trong truyện ít như sao buổi sớm. Vị thầy thuốc nghèo thẳng thắn nói ra nguyên nhân bệnh tình của nhà vua, và kê toa hốt thuốc trị lành cơn bệnh. Nhà vua là người hào phóng, rộng rãi, không có keo kiệt như người thầy thuốc lầm tưởng. Ngài dùng lễ đối đãi ân nhân, lén cho người giúp đỡ, nhưng lại không cho người thầy thuốc biết. Còn vị thầy thuốc thì tâm ý hoà nhã tiếp nhận hiện thực, không ỷ công mà kiêu căng ngã mạn, yêu cầu quá nhiều. Kết quả cuối cùng đã chứng minh. Vị thầy thuốc không yêu cầu gì khiến cho ông ta được càng nhiều. Khi mà mọi chuyện được hiểu rõ, vị thầy thuốc vô cùng cảm kích tấm lòng khảng khái, rộng rãi của nhà vua, ông đã được tất cả những gì mình cần. Còn nhà vua vì sự thẳng thắn và y thuật cao minh của người thầy thuốc mà được khoẻ mạnh, còn được người thầy thuốc nói lên những câu vô cùng có lý khiến cho mình được ích lợi, thật là mọi người đều có chỗ sở đắc.

Khi chúng ta giúp đỡ người không nên có tâm niệm mong cầu người đền đáp. Sự giúp đỡ xuất phất từ nội tâm tốt hơn gấp vạn lần sự giúp đỡ vì mong muốn lợi dưỡng.

 

Thương nhân Bất Thức Ân

 

Nước Ba La Nại có một vị thương nhân tên là “Bất Thức Ân” (Không biết tri ân). Có một lần, người này hướng dẫn 500 thương nhân ra biển tìm kiếm vàng ngọc châu báu, trải qua nhiều lần nỗ lực kiếm tìm, họ đã kiếm được rất nhiều báu vật, mọi người vui vẻ quay thuyền, hy vọng sớm trở về quê hương vui hưởng hạnh phúc. Nhưng trời cao không thuận lòng người, mặt biển an bình lại chứa đựng dòng nước xoáy đáng sợ ở dưới. Thuyền đang lướt sóng bỗng nhiên lắc lư, chao đảo dữ dội, trong chớp mắt toàn bộ con thuyền bị nhận chìm trong dòng nước xoáy. Càng đáng sợ hơn nữa là trong dòng nước xoáy xuất hiện một gương mặt thuỷ la sát xấu xí ghê sợ, nó cười rú lên từng tiếng hung ác dữ tợn, đưa bàn tay khủng bố nắm lấy chiếc thuyền. Mọi người vô cùng kinh hoàng, khóc la thảm thiết. Thuyền trưởng lập tức ra lệnh thuỷ thủ cùng nhau ra sức chèo chống. Nhưng thuyền vẫn đứng im không nhúc nhích, chỉ nghe tiếng cười của quỷ la sát trong tiếng gió lồng lộng. Đoàn thương nhân kinh sợ vạn phần, cùng chấp tay cầu nguyện trời đất, hy vọng có kỳ tích xuất hiện. Trong lúc nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc, từ xa có một “hòn đảo” từ từ trôi đến. Khi hòn đảo đến gần, đoàn thương nhân định thần nhìn, thì ra một con rùa khổng lồ có cái lưng rất lớn.

Rùa biển nghe tiếng khóc than, lòng sinh thương xót, im lặng bơi qua quỷ la sát, nhẹ nhàng tới bên chiếc thuyền. Mọi người quá mừng rỡ, tranh nhau trèo lên lưng. Rùa biển thừa dịp La sát đắc ý cười, không để ý, đem sức bơi đi, gấp gáp thoát khỏi bàn tay của la sát, được một lúc thì nghe tiếng mắng chửi sau lưng. Đến bờ bên kia, rùa kiệt sức, bèn nằm nơi đó nhắm mắt, cuối cùng thiếp đi.

Đoàn thương nhân lúc đó mới thở một hơi dài, từ từ trèo xuống. Trải qua cuộc chạy trốn kinh hoàng, nguy hiểm, mọi người vừa mệt, vừa đói, vừa khát, Bất Thức Ân ở trong đám thương nhân mới vừa trèo xuống bèn dự định đi kiếm một hòn đá đập chết con rùa ăn thịt.

Tất cả mọi người đều ngăn:

- Vừa rồi nếu không có rùa biển đến cứu mạng, chúng ta đã bỏ thân dưới đáy biển. Nó là ân nhân cứu mạng, ông làm sao có thể giết nó? Huống chi rùa là loài vật có tánh linh. Rùa biển lớn như thế ắt tu hành đã lâu năm, giết nó rất xui xẻo.

Bất Thức Ân nói:

- Nay mọi người vừa mệt vừa đói, điều quan trọng là phải lập tức tìm thức ăn, nếu trên đảo hoang này không có, chúng ta không phải chết đói cả sao? Ngồi đây chịu chết, không bằng nghĩ phương pháp tìm đường sống.

Vì thế không màn đến sự ngăn cản của mọi người, Bất Thức Ân tìm một hòn đá lớn, dùng sức đập vào đầu rùa biển.

Rùa biển không chút phòng bị, bị đập chết ngay lập tức. Kẻ vô ân phụ nghĩa Bất Thức Ân xé thịt rùa ăn ngấu ăn nghiến, ăn no vỗ bụng cảm thấy thoả mãn. Mọi người thấy vậy cũng bắt chước ăn thịt rùa.

Một ngày trải qua đủ thứ hiểm nạn, mọi người mỏi mệt vô cùng, trời vừa xẩm tối vội tìm chỗ nghỉ ngơi. Trong tiếng sóng và gió biển ru đưa mọi người vào ngủ ngon lành. Ai ngờ tai hoạ giáng xuống vẫn chưa kết thúc. Nửa đêm, từ đằng xa vọng lại tiếng ầm ầm như sấm nổ, tiếp đến là một trận trời nghiêng đất lỡ, giữa đêm đen xuất hiện một đám bụi, mọi người chưa kịp mở mắt, một đàn voi như điên cuồng phóng vào bọn họ. Lúc này, không còn đường để chạy, muốn tìm rùa biển giúp đỡ thì đã quá muộn. Kết quả mọi người đều bị đàn voi đạp chết

 

(Tạp Bảo tạng kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Giống như tên “Bất Thức Ân” vậy, ách vận của họ bắt nguồn từ sự không biết báo ân mà còn vong ân phụ nghĩa, tổn người lợi mình. Chỉ biết mạng sống của mình, còn không nghĩ đến cái nghĩa của người khác, huống chi xả thân để giữ lấy cái nghĩa? Kết cục của những người trong câu chuyện này là tự mình gây ra tội thì phải gánh lấy.

 

Chim sẻ và Sư tử chúa

 

Sư tử chúa có sức lực mạnh nhất trong loài thú, tiếng rống của nó giống như tiếng sấm nổ, các loài thú nghe rồi đều nằm rạp xuống, các loài chim trên trời đều sợ mà rơi xuống đất, nó bèn bắt lấy ăn thịt.

Sư tử chúa mỗi ngày đều đi tìm phẩm thực trong khu vực quản hạt của nó.

Một ngày nọ sư tử chúa gặp một con voi, bèn rống lên một tiếng, vồ lên mình voi, cắn chết. Trong lúc nhai thịt thì có một miếng xương hóc vào cổ họng, nó đau quá đến nỗi hôn mê bất tỉnh.

Khi tỉnh dậy, nhìn thấy một con chim sẻ bay qua, nó bèn van cầu:

- Chim sẻ ơi! Xin hãy lấy giúp tôi cái xương vướng trong cổ họng, nếu ngươi lấy ra được, ta nhất định sẽ báo đáp cho ngươi.

Chim sẻ nghe rồi, bèn bay vào trong miệng sư tử chúa đem hết sức bình sinh của mình mới ngậm được cái xương bay ra. Sư tử chúa được cứu. Nhưng sau khi được cứu, sư tử chúa mỗi ngày vẫn bắt nhiều thú ăn thịt. Chim sẻ trong lòng bất nhẫn, bèn khuyên sư tử chúa khai ân tha cho loài thú. Sư tử chúa chẳng những không nghe theo mà còn đọc một bài kệ:

Ta là chúa sư tử,

Giết thú là nghề nghiệp.

Ăn thịt uống máu nó

Là bữa ăn hàng ngày.

Ngươi không biết tự lượng,

Thoát từ miệng của ta,

Còn nói gì ta nữa.

Ân này sao quên được?

Chim nghe sư tử nói, cũng đáp lại một bài kệ:

Tôi tuy loài chim nhỏ

Tri ân không tiếc mạng,

Nhưng vua không nhớ ân

Bỏ quên lời thề xưa

Nếu vua có lòng nhân

Ban ân cho muôn loài

Khi chết không oán hận,

Không dám lời nghị luận

Nhưng sư tử chúa vẫn không nghĩ tới việc báo ân, bỏ đi.

Chim sẻ nghĩ thầm: “Ta có ân đức lớn với nó, mà nó không nghĩ tới việc báo đáp, nay ta đi theo nó, nếu nó không báo ân, ta sẽ trừng phạt nó”.

Lúc đó sư tử chúa lại bắt giết các loài thú không chút thương xót, ăn xong rồi nghênh ngang nằm ngủ.

Chim sẻ bèn bay đến bên mình sư tử chúa, đứng trên đầu của nó, dùng sức mổ vào mắt sư tử chúa. Sư tử chúa cảm thấy vô cùng đau nhức, rống lên một tiếng chồm dậy chung quanh chẳng thấy con thú nào. Chỉ thấy chim sẻ đang đứng trên cành cây, bèn rống lên rằng:

- Ngươi là đồ đáng chết, tại sao lại mổ mắt của ta.

Lúc đó, chim sẻ bèn đọc một bài kệ trả lời:

Ơn nặng không biết báo,

Còn sanh tâm oán hại

Nay để lại một mắt,

Phạt ngươi không nhớ ân.

Ngươi tuy vua loài thú,

Nhưng việc làm tráo trở,

Nay mỗi người mỗi đường

Ta không muốn gặp ngươi.

Nói xong chim sẻ vỗ cánh bay đi.

 

(Phẩm ví dụ – Bồ tát Anh Lạc kinh)

 

Lời Phật dạy đạo lý làm người:

 

Sư tử chúa không giữ lời hứa của mình đối với chim sẻ là người có ân cứu mạng, khởi lên tâm ngạo mạn, chẳng những không nghe lời khuyên nhủ, ngược lại còn biện hộ cho hành vi giết tróc tàn bạo của mình. Bị chim sẻ báo thù cũng đáng đời. Chim sẽ chẳng màng thân mình nhỏ bé, tìm cơ hội nghiêm khắc trừng phạt vua trong loài thú, có thể nói là sự can đảm dũng mãnh rất đáng khen ngợi. Làm người cũng vậy, biết ân báo ân, giữ gìn lời hứa, vốn là đạo lý nên có của con người, nhưng nếu không biết báo ân, còn xem thường khinh khi, thì thất bại sẽ cách chúng ta không xa.

BÀI LIÊN QUAN

Giáo pháp như chiếc bè qua sông  ( Thích Trung Định , 2632 xem)

Tranh chăn trâu qua cái nhìn của luận Đại thừa khởi tín  ( Chân Hiền Tâm , 2644 xem)

Truyền thống nhập thế sinh động của Phật giáo Việt Nam  ( Hòa thượng Thích Trí Quảng , 2752 xem)

Hãy tỏ ra mình là Phật tử  ( Hòa thượng Thích Trí Quang , 4064 xem)

Ý nghĩa xuất gia của Đức Phật  ( Hòa thượng Thích Trí Quảng , 6344 xem)

Người có tâm  ( Thích Trung Hữu , 2528 xem)

Hòa thượng Thích Giác Toàn chia sẻ nhân duyên với Chơn Lý của Tổ sư Minh Đăng Quang  ( Hòa thượng Giác Toàn , 6952 xem)

Truyền thống nhập thế sinh động của Phật giáo Việt Nam  ( Hòa thượng Thích Trí Quảng , 2360 xem)

Ý nghĩa Tiêu tai kiết tường thần chú  ( Hòa thượng Thích Trí Quảng , 6040 xem)

Con trâu trong Phật pháp  ( Tâm Minh Ngô Tằng Giao , 6148 xem)

Ý KIẾN BẠN ĐỌC


NI TRƯỞNG HUỲNH LIÊN
  • Thích Nữ Huỳnh Liên
  • Thích Nữ Huỳnh Liên
  • Thích Nữ Huỳnh Liên

 

Nguyện xin hiến trọn đời mình

Cho nguồn Đạo pháp cho tình Quê hương

 

THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ
  • Thích Nữ Bạch Liên
  • Thích Nữ Thanh Liên
  • Thích Nữ Kim Liên
  • Thích Nữ Ngân Liên
  • Thích Nữ Chơn Liên
  • Thích Nữ Quảng Liên
  • Thích Nữ Quảng Liên
  • Thích Nữ Tạng Liên
  • Thích Nữ Trí Liên
  • Thích Nữ Đức Liên
  • Thích Nữ Thiện Liên
THÔNG BÁO

Thông báo Khóa tu Truyền thống lần thứ 41 do Ni giới Hệ phái Khất sĩ tổ chức tại Tịnh xá Ngọc Long (huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai)

THÔNG BÁO Khóa tu Truyền thống lần thứ 41 Do Ni giới Hệ phái Khất sĩ tổ chức từ ngày 11/3 - 17/3 năm Ất Tỵ (08 - 14/4/2025) tại Tịnh xá Ngọc Long (huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai).

Thông báo: Hội thi giáo lý nhân ngày Lễ Tưởng niệm lần thứ 38 Ni trưởng Huỳnh Liên - Đệ Nhất Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam

Nhân ngày lễ Tưởng niệm lần thứ 38 Ni trưởng Huỳnh Liên - Đệ Nhất Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam, Tổ đình Tịnh xá Ngọc Phương sẽ tổ chức Hội thi giáo lý về cuộc đời và đạo nghiệp của Ni trưởng Đệ Nhất.

Thông báo Khóa Bồi dưỡng đạo hạnh lần thứ 8 do Ni giới Hệ phái Khất sĩ tổ chức

Tiếp theo thời khóa tu học trong 3 tháng An cư là chương trình 10 ngày bồi dưỡng đạo hạnh lần thứ 8 cho chư Ni NGHPKS, bắt đầu từ chiều mùng 1 tháng 7 đến ngày 11 tháng 7 năm Giáp Thìn (nhằm ngày 4/8/2024 – 14/8/2024) tại Tổ đình Tịnh xá Ngọc Phương (Số 498/1 đường Lê Quang Định, Phường 1, quận Gò Vấp, Tp. HCM)

Thông báo khóa Bồi dưỡng đạo hạnh lần 9 do Hệ phái Khất sĩ tổ chức

Nhằm nâng cao đời sống Phạm hạnh và thắp sáng lý tưởng giải thoát, giác ngộ và phụng sự Đạo pháp cho các Tăng Ni trẻ vừa bước chân vào đạo, Hệ phái Khất sĩ mỗi năm tổ chức một khóa BỒI DƯỠNG ĐẠO HẠNH tại Pháp viện Minh Đăng Quang (505 Võ Nguyên Giáp, phường An Phú, TP. Thủ Đức, TP. HCM) dành cho các Sa-di, Sa-di-ni và Tập sự.

Thư mời viết bài Tập san Đuốc Sen - số 35 chủ đề Lễ tự tứ Tăng và Vu lan Báo hiếu

Thư mời viết bài Tập san Đuốc Sen - số 35 chủ đề Lễ tự tứ Tăng và Vu lan Báo hiếu

VIDEO HÔM NAY

Trực tiếp: Phiên Bế mạc Hội thảo Khoa học Ni trưởng Huỳnh Liên tại Pháp viện Minh Đăng Quang - Ban Truyền hình Trực tuyến PSO

Pháp âm MP3

  • 0 - Lời Mở Đầu
  • 01 - Võ Trụ Quan
  • 02 - Ngũ Uẩn
  • 03 - Lục Căn
  • 04 - Thập Nhị Nhơn Duyên

LỊCH VIỆT NAM

THỐNG KÊ